0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file651e97263055d-Điều-kiện-để-xóa-án-tích--19-.png

Phạm vi đại diện của vợ, chồng trong các giao dịch dân sự

Trong mối quan hệ hôn nhân, việc đại diện cho nhau trong các giao dịch dân sự là một khía cạnh quan trọng và phức tạp, đặc biệt khi có sự cần đến việc ủy quyền. Quyền và điều kiện của việc đại diện giữa vợ và chồng được quy định rõ ràng trong pháp luật, nhằm đảm bảo sự công bằng và bảo vệ lợi ích của cả hai bên. Dưới đây, chúng ta hãy cùng Thủ tục pháp luật xem xét cụ thể về việc vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập giao dịch hay không, và điều kiện cụ thể quy định bởi pháp luật.

Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập giao dịch không?

Trong vấn đề về việc đại diện trong giao dịch dân sự, Điều 134 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định cụ thể:

Đại diện là việc một cá nhân hoặc một pháp nhân (được gọi là người đại diện) thực hiện một giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của một cá nhân hoặc một pháp nhân khác (người được đại diện).

Vậy, trong mối quan hệ vợ chồng, việc một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của người còn lại là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng được quy định bởi pháp luật hoặc có thể dựa trên sự ủy quyền từ một bên trong mối quan hệ hôn nhân. Điều này cho phép một bên vợ hoặc chồng đại diện cho người còn lại để xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật cụ thể không cho phép việc này được thực hiện thông qua người đại diện.

Căn cứ xác lập quan hệ đại diện giữa vợ và chồng

Đại diện theo pháp luật

"Về việc đại diện theo pháp luật, theo quy định tại Khoản 3 Điều 24 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, điều kiện cho việc đại diện cho nhau giữa vợ và chồng được xác định như sau:

Thứ nhất,đại diện giữa vợ và chồng khi một trong hai bên mất năng lực hành vi dân sự. Khoản 1 Điều 22 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau:

  • Khi một người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, theo yêu cầu của người có quyền hoặc lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân sự dựa trên kết luận của giám định pháp y tâm thần.

Đối với người mất năng lực hành vi dân sự, pháp luật yêu cầu phải có một người giám hộ. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng vợ hoặc chồng tự nhiên sẽ là người giám hộ đầu tiên của vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự khi không có người giám hộ được xác định theo quy định tại Khoản 2 Điều 48 và Khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về người giám hộ tự nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự như sau:

  • Trường hợp vợ bị mất năng lực hành vi dân sự, thì chồng sẽ là người giám hộ; và nếu chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, thì vợ sẽ là người giám hộ.

Thứ hai, đại diện giữa vợ và chồng khi một trong hai bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Một cá nhân bị coi là bị hạn chế năng lực hành vi dân sự trong trường hợp sau:

  • Người đó là người nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác, dẫn đến việc phá tán tài sản của gia đình. Trong trường hợp này, theo yêu cầu của người có quyền hoặc lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và quy định phạm vi đại diện của người đó.

Đại diện theo ủy quyền

Theo Khoản 2 của Điều 24 trong Luật Hôn nhân và gia đình, vợ và chồng có thể ủy quyền cho nhau để xác lập, thực hiện và chấm dứt một số giao dịch cụ thể theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan, và điều này phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

Theo quy định này, việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng chỉ áp dụng trong trường hợp xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt một số giao dịch cụ thể theo quy định của pháp luật. Điều này áp dụng cho những giao dịch mà yêu cầu sự đồng ý của cả hai vợ chồng, nhưng một bên không thể tham gia trực tiếp vào giao dịch đó, do đó có thể ủy quyền cho bên còn lại để thực hiện giao dịch đó.

Ví dụ về trường hợp đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng có thể là trong mối quan hệ kinh doanh, như được quy định tại Điều 25 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, hoặc trong trường hợp khi giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng liên quan đến tài sản chung, nhưng chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như quy định tại Điều 24 và 25 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).

Với tư cách là người đại diện theo ủy quyền, một trong hai vợ chồng có quyền thực hiện các giao dịch vì lợi ích của cả hai vợ chồng hoặc vì lợi ích của người còn lại trong phạm vi được ủy quyền.

Điều 562 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về hợp đồng ủy quyền quy định rằng hợp đồng ủy quyền là một thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nhiệm vụ thực hiện công việc thay mặt bên ủy quyền, và bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định cụ thể về giấy ủy quyền, mà quy định về ủy quyền thông qua hợp đồng. Tuy nhiên, giấy uỷ quyền vẫn được sử dụng và tồn tại trên thực tế khi không vi phạm quy định của pháp luật.

Kết luận

Như vậy, việc vợ chồng ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch dân sự là hoàn toàn khả thi và tuân theo quy định của pháp luật. Điều kiện và phạm vi của việc đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền đã được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng như Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định một cách cụ thể và rõ ràng. Việc này giúp đảm bảo tính công bằng và bảo vệ lợi ích của cả hai vợ chồng trong mọi tình huống và tránh những xung đột không cần thiết trong quá trình thực hiện giao dịch dân sự. Tuy mọi thỏa thuận uỷ quyền phải tuân theo quy định của pháp luật, nhưng việc sử dụng giấy ủy quyền vẫn phổ biến và hữu ích trong thực tế, miễn là không vi phạm quy định của pháp luật hiện hành.

Phạm Diễm Thư
217 ngày trước
Phạm vi đại diện của vợ, chồng trong các giao dịch dân sự
Trong mối quan hệ hôn nhân, việc đại diện cho nhau trong các giao dịch dân sự là một khía cạnh quan trọng và phức tạp, đặc biệt khi có sự cần đến việc ủy quyền. Quyền và điều kiện của việc đại diện giữa vợ và chồng được quy định rõ ràng trong pháp luật, nhằm đảm bảo sự công bằng và bảo vệ lợi ích của cả hai bên. Dưới đây, chúng ta hãy cùng Thủ tục pháp luật xem xét cụ thể về việc vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập giao dịch hay không, và điều kiện cụ thể quy định bởi pháp luật.Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập giao dịch không?Trong vấn đề về việc đại diện trong giao dịch dân sự, Điều 134 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định cụ thể:Đại diện là việc một cá nhân hoặc một pháp nhân (được gọi là người đại diện) thực hiện một giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của một cá nhân hoặc một pháp nhân khác (người được đại diện).Vậy, trong mối quan hệ vợ chồng, việc một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của người còn lại là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng được quy định bởi pháp luật hoặc có thể dựa trên sự ủy quyền từ một bên trong mối quan hệ hôn nhân. Điều này cho phép một bên vợ hoặc chồng đại diện cho người còn lại để xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật cụ thể không cho phép việc này được thực hiện thông qua người đại diện.Căn cứ xác lập quan hệ đại diện giữa vợ và chồngĐại diện theo pháp luật"Về việc đại diện theo pháp luật, theo quy định tại Khoản 3 Điều 24 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, điều kiện cho việc đại diện cho nhau giữa vợ và chồng được xác định như sau:Thứ nhất,đại diện giữa vợ và chồng khi một trong hai bên mất năng lực hành vi dân sự. Khoản 1 Điều 22 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau:Khi một người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, theo yêu cầu của người có quyền hoặc lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân sự dựa trên kết luận của giám định pháp y tâm thần.Đối với người mất năng lực hành vi dân sự, pháp luật yêu cầu phải có một người giám hộ. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng vợ hoặc chồng tự nhiên sẽ là người giám hộ đầu tiên của vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự khi không có người giám hộ được xác định theo quy định tại Khoản 2 Điều 48 và Khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về người giám hộ tự nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự như sau:Trường hợp vợ bị mất năng lực hành vi dân sự, thì chồng sẽ là người giám hộ; và nếu chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, thì vợ sẽ là người giám hộ.Thứ hai, đại diện giữa vợ và chồng khi một trong hai bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Một cá nhân bị coi là bị hạn chế năng lực hành vi dân sự trong trường hợp sau:Người đó là người nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác, dẫn đến việc phá tán tài sản của gia đình. Trong trường hợp này, theo yêu cầu của người có quyền hoặc lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và quy định phạm vi đại diện của người đó.Đại diện theo ủy quyềnTheo Khoản 2 của Điều 24 trong Luật Hôn nhân và gia đình, vợ và chồng có thể ủy quyền cho nhau để xác lập, thực hiện và chấm dứt một số giao dịch cụ thể theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan, và điều này phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng.Theo quy định này, việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng chỉ áp dụng trong trường hợp xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt một số giao dịch cụ thể theo quy định của pháp luật. Điều này áp dụng cho những giao dịch mà yêu cầu sự đồng ý của cả hai vợ chồng, nhưng một bên không thể tham gia trực tiếp vào giao dịch đó, do đó có thể ủy quyền cho bên còn lại để thực hiện giao dịch đó.Ví dụ về trường hợp đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng có thể là trong mối quan hệ kinh doanh, như được quy định tại Điều 25 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, hoặc trong trường hợp khi giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng liên quan đến tài sản chung, nhưng chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như quy định tại Điều 24 và 25 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).Với tư cách là người đại diện theo ủy quyền, một trong hai vợ chồng có quyền thực hiện các giao dịch vì lợi ích của cả hai vợ chồng hoặc vì lợi ích của người còn lại trong phạm vi được ủy quyền.Điều 562 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về hợp đồng ủy quyền quy định rằng hợp đồng ủy quyền là một thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nhiệm vụ thực hiện công việc thay mặt bên ủy quyền, và bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định cụ thể về giấy ủy quyền, mà quy định về ủy quyền thông qua hợp đồng. Tuy nhiên, giấy uỷ quyền vẫn được sử dụng và tồn tại trên thực tế khi không vi phạm quy định của pháp luật.Kết luậnNhư vậy, việc vợ chồng ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch dân sự là hoàn toàn khả thi và tuân theo quy định của pháp luật. Điều kiện và phạm vi của việc đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền đã được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng như Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định một cách cụ thể và rõ ràng. Việc này giúp đảm bảo tính công bằng và bảo vệ lợi ích của cả hai vợ chồng trong mọi tình huống và tránh những xung đột không cần thiết trong quá trình thực hiện giao dịch dân sự. Tuy mọi thỏa thuận uỷ quyền phải tuân theo quy định của pháp luật, nhưng việc sử dụng giấy ủy quyền vẫn phổ biến và hữu ích trong thực tế, miễn là không vi phạm quy định của pháp luật hiện hành.