Quy định pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
Quy định pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là một khía cạnh quan trọng của hệ thống pháp luật dân sự. Chúng ta cùng Thủ tục pháp luật tìm hiểu về nội dung giao dịch vô hiệu và các quyền lợi cụ thể về vấn đề này. Quá trình này giúp chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của việc ngăn chặn các hành vi giả tạo trong lĩnh vực giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là gì?
Trước khi hiểu giao dịch vô hiệu do giả tạo là gì thì hãy cùng tìm hiểu giao dịch vô hiệu là gì qua bài viết sau. Tiếp theo hãy cùng tìm hiểu giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:
Căn cứ theo Điều 124 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì có thể hiểu giao dịch dân sự giả tạo đề cập đến việc thiết lập một giao dịch với mục đích che giấu giao dịch khác có thật. Trong các giao dịch giả tạo, các bên không có ý định thiết lập quyền và nghĩa vụ với nhau. Thực tế, khi tham gia giao dịch dân sự thông thường, các bên đều thể hiện ý chí thật sự của họ. Ngược lại, trong giao dịch dân sự giả tạo, mục tiêu chính là che giấu ý chí thật sự của các chủ thể. Vì vậy, giao dịch dân sự giả tạo không phản ánh ý chí thực sự của các bên, mà chỉ là một cách để che giấu một giao dịch thực sự khác.
Xác định giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
Theo quy định của pháp luật hiện hành, có hai loại giao dịch giả tạo gồm:
- Một là, giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một giao dịch khác.
Như vậy, ít nhất trong trường hợp này có hai giao dịch song song tồn tại – đó là giao dịch đích thực (bên trong) và giao dịch giả tạo (giao dịch che giấu, thể hiện ra bên ngoài).
Giao dịch giả tạo nhằm che giấu giao dịch khác luôn luôn vô hiệu, còn giao dịch đích thực vẫn có hiệu lực pháp lí. Tuy nhiên nếu giao dịch đích thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì có thể vô hiệu.
- Hai là, giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
Trong trường hợp này, giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với một chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác lập giao dịch giả tạo.
Khi tham gia giao dịch, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập với sự giả tạo.
Từ cơ sở pháp luật nói trên có thể phân tích, hợp đồng vô hiệu do giả tạo là hợp đồng được các bên xác lập trên cơ sở ý chí không đích thực, không có sự thống nhất giữa ý chí thực sự bên trong và bày tỏ ý chí thực sự ra bên ngoài. Do đó, hợp đồng giả tạo bị coi là vi phạm pháp luật và bị tuyên bố vô hiệu do thiếu đi sự thống nhất về ý chí này.
Thời hiệu yêu cầu tuyên bố một giao dịch vô hiệu
Theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật dân sự 2015, thời hiệu để tuyên bố một giao dịch vô hiệu là 02 năm, được tính từ ngày:
- Người bị nhầm lẫn hoặc bị lừa dối biết hoặc nên biết về việc giao dịch được thiết lập dưới tình trạng nhầm lẫn hoặc lừa dối.
- Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người gặp khó khăn trong việc nhận thức và làm chủ hành vi, hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc nên biết rằng người họ đại diện đã tự mình xác lập và thực hiện giao dịch.
- Người không nhận thức và không kiểm soát được hành vi của mình trong việc xác lập giao dịch.
- Người bị đe dọa hoặc bị cưỡng ép để chấm dứt hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép.
- Giao dịch dân sự được thiết lập trong trường hợp không tuân thủ quy định về hình thức.
Lưu ý: Sau khi thời hiệu 02 năm trôi qua, nếu không có yêu cầu tuyên bố về việc giao dịch đó vô hiệu, thì giao dịch đó sẽ tiếp tục có hiệu lực.
Trường hợp người thứ ba ngay tình khi hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo
Theo Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về bảo vệ quyên lợi của người thứ ba khi giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
- Nếu tài sản không yêu cầu việc đăng ký quyền sở hữu, và tài sản này đã được chuyển giao cho người thứ ba một cách không có ý định gian dối, thì giao dịch dân sự vẫn giữ hiệu lực. Tài sản không yêu cầu đăng ký quyền sở hữu có thể bao gồm gia súc, gia cầm, tiền bạc, vàng, và vật dụng có giá trị.
- Nếu tài sản yêu cầu đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, và sau đó tài sản này được chuyển giao cho người thứ ba một cách không có ý định gian dối, thì giao dịch dân sự đó vẫn có hiệu lực. Trường hợp tài sản này là bất động sản hoặc động sản đã đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, và người thứ ba xác lập và thực hiện giao dịch dựa trên thông tin đăng ký, thì giao dịch đó sẽ có hiệu lực.
- Tuy nhiên, nếu tài sản yêu cầu đăng ký quyền sở hữu nhưng chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì giao dịch dân sự với người thứ ba sẽ không có hiệu lực. Trong trường hợp này, để nhận được tài sản, người thứ ba sẽ phải tham gia vào quá trình đấu giá tài sản tại tổ chức có thẩm quyền. Theo quy định về đấu giá tài sản, khi người thứ ba mua tài sản trong phiên đấu giá và có văn bản mua bán, người mua sẽ có quyền đăng ký quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản hợp pháp.
- Trong trường hợp giao dịch dân sự có hiệu lực, chủ sở hữu không có quyền yêu cầu trả lại tài sản từ người thứ ba một cách không có ý định gian dối.
Kết luận
Từ những điều đã trình bày, chúng ta đã có cái nhìn tổng quan về quy định pháp luật liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo đề cập đến việc sử dụng giao dịch giả mạo để che giấu giao dịch thực sự. Hiểu biết về các quy định này là quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích của những người tham gia vào giao dịch dân sự và đảm bảo tính công bằng trong lĩnh vực pháp luật dân sự.