0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file6512fdd9d1fb2-van-de-can-luu-y-ve-thoa-thuan-xac-lap-che-do-tai-san-của-vo-chong.jpg

Phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Vợ chồng chung sống với nhau không còn hành phúc sẽ dẫn đến việc đổ vỡ trong hôn nhân mà việc ly hôn sẽ khó giỉa quyết về tài sản. Do đó, mọi người cần tìm hiểu pháp luật hôn nhân và gia đình để hiểu hết được cách phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn qua bài viết sau đây.

1.Tài sản chung là gì?

Trước hết, cần hiểu thế nào là tài sản chung của vợ chồng. Căn cứ theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng, gồm:

- Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân.

(Căn cứ Điều 9 Nghị định 126/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân và gia đình thì thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là khoản tiền thưởng, tiền trúng xổ số, tiền trợ cấp; tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, bị đánh rơi, bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước)

- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung

- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc thông qua giao dịch bằng tài sản riêng

- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung (nghĩa là vợ, chồng ai cho rằng tài sản nào là tài sản riêng của mình thì phải có nghĩa vụ tự chứng minh khi tranh chấp ở Tòa án, nếu không chứng minh được thì Tòa án sẽ mặc định nó là tài sản chung)

2.Nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn

2.1 Theo nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi (khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014) nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

- Yếu tố thứ nhất là xem xét hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng

Hoàn cảnh này được hiểu là tình trạng năng lực về pháp luật, năng lực về hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng tạo ra thu nhập sau khi vợ chồng ly hôn. Bên nào gặp khó khăn hơn thì Tòa án sẽ chia phần nhiều hơn hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.

- Yếu tố thứ hai là công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập. 

    Công sức đóng góp của vợ, chồng là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

- Yếu tố thứ ba là bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập 

   Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. 

- Yếu tố thứ tư là lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng 

    Là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Trong hôn nhân gia đình thì yếu tố lỗi không phải căn cứ để cho ly hôn nhưng yếu tố lỗi là căn cứ để xem xét về việc chia tài sản cho vợ chồng dựa vào việc họ thực hiện các quyền, nghĩa vụ được căn cứ tại Luật Hôn nhân và gia đình có tốt hay không. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lần nhau, chung thủy trong hôn nhân. Nhưng ví dụ mà người chồng vi phạm các nghĩa vụ này như có hành động bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản… thì Tòa án sẽ cân nhắc, xem xét giao tài sản cho người chồng ít hơn so với người vợ, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên. Tuy nhiên để chứng minh người chồng có lỗi thì người vợ phải có chứng cứ, chứng cứ ở đây có thể là chứng cứ bằng văn bản, file ghi âm, ghi hình hoặc các loại chứng cứ khác được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục luật định.

2.2 Theo nguyên tắc chia tài sản chung bằng hiện vật (khoản 3 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014), nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. 

   Pháp luật ưu tiên chia bằng hiện vật trước, không chia được bằng hiện vật thì mới định giá thành tiền để chia, bên nhận hiện vật có giá trị thanh toán lại cho bên kia bằng số tiền chênh lệch.

2.3 Theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thuộc sở hữu của người đó (khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014), trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung thì bên không nhận tài sản sẽ được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Như vật, luật quy định luôn luôn tôn trọng sự thỏa thuận của vợ và chồng

2.4 Theo nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình (khoản 5 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)

Kết luận

Như vậy, phân chia tài sản chung khi ly hôn không chỉ áp dụng theo nguyên tắc chia đôi mà còn dựa vào nhiều yếu tố khác nhau mà Tòa án sẽ xem xét để phân chia sao cho phù hợp. Điều này cho thấy pháp luật không hề áp dụng cứng nhắc theo nguyên tắc mà còn đảm bảo phù hợp với hoàn cảnh, được cân nhắc kỹ càng để quyền của mỗi người được đảm bảo.

 

Phạm Diễm Thư
235 ngày trước
Phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Vợ chồng chung sống với nhau không còn hành phúc sẽ dẫn đến việc đổ vỡ trong hôn nhân mà việc ly hôn sẽ khó giỉa quyết về tài sản. Do đó, mọi người cần tìm hiểu pháp luật hôn nhân và gia đình để hiểu hết được cách phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn qua bài viết sau đây.1.Tài sản chung là gì?Trước hết, cần hiểu thế nào là tài sản chung của vợ chồng. Căn cứ theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng, gồm:- Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân.(Căn cứ Điều 9 Nghị định 126/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân và gia đình thì thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là khoản tiền thưởng, tiền trúng xổ số, tiền trợ cấp; tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, bị đánh rơi, bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước)- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc thông qua giao dịch bằng tài sản riêng- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung (nghĩa là vợ, chồng ai cho rằng tài sản nào là tài sản riêng của mình thì phải có nghĩa vụ tự chứng minh khi tranh chấp ở Tòa án, nếu không chứng minh được thì Tòa án sẽ mặc định nó là tài sản chung)2.Nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn2.1 Theo nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi (khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014) nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:- Yếu tố thứ nhất là xem xét hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồngHoàn cảnh này được hiểu là tình trạng năng lực về pháp luật, năng lực về hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng tạo ra thu nhập sau khi vợ chồng ly hôn. Bên nào gặp khó khăn hơn thì Tòa án sẽ chia phần nhiều hơn hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.- Yếu tố thứ hai là công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập.     Công sức đóng góp của vợ, chồng là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.- Yếu tố thứ ba là bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập    Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. - Yếu tố thứ tư là lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng     Là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Trong hôn nhân gia đình thì yếu tố lỗi không phải căn cứ để cho ly hôn nhưng yếu tố lỗi là căn cứ để xem xét về việc chia tài sản cho vợ chồng dựa vào việc họ thực hiện các quyền, nghĩa vụ được căn cứ tại Luật Hôn nhân và gia đình có tốt hay không. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lần nhau, chung thủy trong hôn nhân. Nhưng ví dụ mà người chồng vi phạm các nghĩa vụ này như có hành động bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản… thì Tòa án sẽ cân nhắc, xem xét giao tài sản cho người chồng ít hơn so với người vợ, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên. Tuy nhiên để chứng minh người chồng có lỗi thì người vợ phải có chứng cứ, chứng cứ ở đây có thể là chứng cứ bằng văn bản, file ghi âm, ghi hình hoặc các loại chứng cứ khác được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục luật định.2.2 Theo nguyên tắc chia tài sản chung bằng hiện vật (khoản 3 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014), nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.    Pháp luật ưu tiên chia bằng hiện vật trước, không chia được bằng hiện vật thì mới định giá thành tiền để chia, bên nhận hiện vật có giá trị thanh toán lại cho bên kia bằng số tiền chênh lệch.2.3 Theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thuộc sở hữu của người đó (khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014), trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung thì bên không nhận tài sản sẽ được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Như vật, luật quy định luôn luôn tôn trọng sự thỏa thuận của vợ và chồng2.4 Theo nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình (khoản 5 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)Kết luậnNhư vậy, phân chia tài sản chung khi ly hôn không chỉ áp dụng theo nguyên tắc chia đôi mà còn dựa vào nhiều yếu tố khác nhau mà Tòa án sẽ xem xét để phân chia sao cho phù hợp. Điều này cho thấy pháp luật không hề áp dụng cứng nhắc theo nguyên tắc mà còn đảm bảo phù hợp với hoàn cảnh, được cân nhắc kỹ càng để quyền của mỗi người được đảm bảo.