0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64dd9590871b2-photo-1479142506502-19b3a3b7ff33.jpg

Phân loại quyền tài sản

1.1.2. Phân loại quyền tài sản 

1.1.2.1. Quyền tài sản có tính chất đối vật và quyền tài sản có tính chất đối nhân 

Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền của chủ thể, các quyền tài sản theo quy định của pháp luật hiện hành có thể được chia làm 02 (hai) nhóm, các quyền đối vật và các quyền đối nhân. Trong quan niệm của người La-tinh, khối tài sản có của một người được tạo thành từ hai loại quyền: Quyền đối vật – tức là các quyền được thực hiện trên các vật cụ thể và xác định; quyền đối nhân – bao gồm các quyền tương ứng với các nghĩa vụ tài sản mà người khác phải thực hiện vì lợi ích của người có quyền. Hiểu một cách khái quát, quyền đối vật là quyền của chủ thể được thực hiện các hành vi trực tiếp trên những vật cụ thể mà không cần sự cho phép hay hợp tác của các chủ thể khác. Các quyền tài sản thể hiện dưới dạng quyền đối vật trong BLDS năm 2015 có thể kể đến gồm: quyền sở hữu, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề; quyền của bên cầm cố đối với tài sản cầm cố… 

Xét về tính chất, các quyền đối vật mang những mức độ khác nhau (đầy đủ và không đầy đủ). Quyền đối vật đầy đủ toàn diện nhất được ghi nhận trong BLDS năm 2015 chính là quyền sở hữu. Nội dung quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật. Quyền sở hữu cho phép người có quyền khai thác trọn vẹn các giá trị vật chất, kinh tế của tài sản. Chính chủ sở hữu là người có quyền tối hậu định đoạt tài sản (thông qua việc bán, tặng cho, để thừa kế…). Việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản của chủ sở hữu luôn được đặt trong một giới hạn do luật định nhằm phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, của nhà nước. Ví dụ, BLDS đã đặt ra các “quyền sử dụng hạn chế” đối với bất động sản liền kề, gồm: quyền cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề; quyền tưới, tiêu nước trong canh tác; quyền về lối đi... Quyền sở hữu của chủ sở hữu cũng bị hạn chế định đoạt trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ, khi định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung, tài sản là di tích lịch sử văn hóa phải dành quyền ưu tiên mua cho các đồng chủ sở hữu chung còn lại hoặc cho Nhà nước. 

Bên cạnh những quyền đối vật đầy đủ còn có những quyền đối vật không đầy đủ. Điển hình cho những quyền đối vật không đầy đủ được quy định trong BLDS năm 2015 là quyền hưởng dụng (Điều 257), quyền bề mặt (Điều 267), quyền đối với bất động sản liền kề (Điều 245), quyền của bên bảo đảm đối với tài sản bảo đảm (quyền của người cầm cố đối với tài sản cầm cố, quyền của người nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp). Bản chất của những quyền này là sự phân rã của quyền sở hữu. Ở góc độ nào đó, chủ sở hữu đã chuyển giao cho các chủ thể khác một số quyền năng đối với tài sản của mình (chuyển giao quyền chiếm hữu, quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi hay lợi tức từ tài sản trong một thời hạn nhất định…) thông qua một GDDS hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp chủ sở hữu luôn giữ lại cho mình quyền định đoạt tài sản.

Đối lập với các quyền đối vật là các quyền đối nhân. Quyền đối nhân được thiết lập trong mối quan hệ giữa hai người, hai chủ thể của quan hệ pháp luật. Có thể hiểu, quyền đối nhân cho phép một người yêu cầu một người khác đáp ứng đòi hỏi của mình nhằm thoả mãn một nhu cầu gắn liền với một lợi ích vật chất. Mối quan hệ giữa hai người này còn gọi là quan hệ nghĩa vụ. Bản chất quyền đối nhân là quyền của chủ thể (chủ thể quyền) được yêu cầu một chủ thể khác (chủ thể có nghĩa vụ) phải thực hiện một hành vi nhất định, nói cách khác, quyền của chủ thể quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉ được thỏa mãn thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ. Tiêu biểu cho các quyền tài sản dưới dạng quyền đối nhân theo quy định của BLDS năm 2015 gồm: quyền đòi nợ, quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm… 

Việc phân loại quyền tài sản thành hai nhóm, quyền tài sản có tính chất đối vật và quyền tài sản có tính chất đối nhân có ý nghĩa nhất định trong việc xây dựng phương thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền tài sản. Đối với những quyền tài sản mang bản chất của quyền đối vật, pháp luật cần có các quy định cho phép bên nhận thế chấp được quyền thu giữ tài sản hữu hình mà quyền tài sản của bên thế chấp được thiết lập trên tài sản hữu hình đấy, trong trường hợp bên thế chấp vi phạm nghĩa vụ là điều kiện xử lý tài sản bảo đảm. Đối với những quyền tài sản mang bản chất của quyền đối nhân, pháp luật cần có quy định cụ thể về nghĩa vụ của người thứ ba (người có nghĩa vụ tài sản với bên thế chấp) trước bên nhận thế chấp trong trường hợp bên nhận thế chấp đã thông báo về việc xác lập thế chấp. 

1.1.2.2. Quyền tài sản có thể chuyển giao và quyền tài sản không thể chuyển giao 

Dưới góc độ khoa học pháp lý, một quyền tài sản nào đó có thể bị pháp luật hạn chế chuyển giao quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác bởi bản chất của quyền tài sản (các quyền tài sản này gắn liền với yếu tố nhân thân của chủ thể mang quyền hoặc chủ thể có nghĩa vụ, ví dụ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng, sức khoẻ, uy tín bị xâm phạm; quyền yêu cầu cấp dưỡng…) hoặc trong những trường hợp pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của một chủ thể khác không phải là chủ sở hữu (trường hợp quyền tài sản đang là đối tượng của một BPBĐ).

Khi nhìn nhận quyền tài sản với tư cách là đối tượng của GDDS, với vai trò là luật chung của hệ thống luật tư, BLDS năm 2015 phải quy định rõ hoặc đưa ra một nguyên tắc xác định các quyền tài sản nào có thể là đối tượng của GDDS (được phép chuyển giao), các quyền tài sản nào không thể trở thành đối tượng của GDDS (không được phép chuyển giao). Khi nghiên cứu các quy định hiện có trong BLDS năm 2015, tác giả nhận thấy BLDS năm 2015 không liệt kê những quyền tài sản nào được phép chuyển giao và những quyền tài sản nào không được phép chuyển giao. Có hai vấn đề cần được rõ: 

Thứ nhất, liệu tất cả các quyền tài sản đều có thể trở thành đối tượng của GDDS? Thứ hai, phải chăng chỉ có những quyền tài sản cụ thể được quy định trong BLDS năm 2015 hoặc trong các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS năm 2015 mới có thể là đối tượng của các GDDS? 

Trước đây, BLDS năm 2005 có liệt kê các quyền tài sản được phép sử dụng làm tài sản bảo đảm bao gồm: “Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Kế thừa khoản 3 Điều 379 BLDS 2005, khoản 3 Điều 377 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ là nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các nghĩa vụ khác gắn liền với nhân thân không thể chuyển cho người khác được thì không được thay thế bằng nghĩa vụ khác”. Hiểu rộng ra, quy định này chỉ hạn chế một số quyền tài sản không được thay thế, chuyển giao trong các quan hệ nghĩa vụ như quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, uy tín và các quyền tài sản gắn liền với nhân thân khác. Theo nguyên tắc tự do ý chí, các chủ thể được làm những gì luật không cấm, điều này đồng nghĩa với việc BLDS năm 2015 cho phép một số quyền tài sản khác được chuyển giao (làm đối tượng của các GDDS), ví dụ, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm… 

Việc phân loại quyền tài sản thành hai nhóm: quyền tài sản có thể chuyển giao và quyền tài sản không thể chuyển giao thông qua GDDS có ý nghĩa nhất định trong việc xác định đối tượng của biện pháp thế chấp quyền tài sản. Vấn đề quan tâm hàng đầu của các bên khi xác lập biện pháp thế chấp quyền tài sản là khi có sự vi phạm nghĩa vụ, bên nhận thế chấp có quyền “bán” quyền tài sản thế chấp cho người khác để thu hồi nợ hay không. Vì lẽ đó, đối tượng của biện pháp thế chấp quyền tài sản phải là những quyền tài sản có thể chuyển giao cho người khác thông qua các GDDS. Hạn chế lớn nhất của BLDS năm 2015 là chưa có điều luật nào mang tính nguyên tắc hoặc quy định dưới dạng liệt kê cụ thể nhằm xác định rõ các quyền tài sản có thể chuyển giao hoặc không thể chuyển giao thông qua các GDDS, từ đó làm cơ sở pháp lý để các chủ thể chủ động lựa chọn đối tượng của biện pháp thế chấp nói riêng cũng như đối tượng của các GDDS nói chung. 

1.1.2.3. Quyền tài sản phát sinh từ giao dịch dân sự, quyền tài sản phát sinh từ hoạt động lao động sáng tạo của con người và quyền tài sản phát sinh trên cơ sở quy định của luật 

Dựa trên căn cứ xác lập quyền, một cách tổng quát, các quyền tài sản có thể được phân làm ba nhóm: (i) Các quyền tài sản phát sinh từ GDDS. Nhóm quyền tài sản này có thể được phát sinh từ các hợp các đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương, mang đặc điểm của quyền đối nhân, bao gồm: quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản, quyền yêu cầu thanh toán phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp…; (ii) Các quyền tài sản phát sinh từ hoạt động lao động sáng tạo của con người (quyền tài sản đối với các đối tượng của quyền SHTT), nhóm quyền này được ghi nhận trong Luật SHTT, bao gồm: quyền tài sản trong phạm vi của quyền tác giả và các quyền liên quan; quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu công nghiệp và quyền tài sản đối với giống cây trồng; (iii) Các quyền tài sản phát sinh trên cơ sở quy định của luật, nhóm quyền tài sản dạng này mang đặc điểm của quyền đối vật, bao gồm: quyền sử dụng đất, quyền bề mặt, quyền hưởng dụng và quyền địa dịch… 

* Nhóm quyền tài sản phát sinh từ GDDS 

Hiện nay, các quyền tài sản phát sinh từ GDDS có thể trở thành đối tượng của biện pháp thế chấp và được đăng ký BPBĐ theo yêu cầu tại Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, bao gồm: (i) Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng thuê đóng tàu biển; quyền bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng mua bán tàu bay, tàu biển; quyền thụ hưởng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm đối với tàu bay, tàu biển; (ii) Các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng góp vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh nhà ở, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua nhà ở (bao gồm cả nhà ở xã hội) giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở; các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán, hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua công trình xây dựng giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng công trình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản; (iii) Phần vốn góp trong doanh nghiệp. 

Các quyền tài sản phát sinh từ GDDS ngày càng trở thành loại tài sản bảo đảm được ưa chuộng đối với các TCTD bên cạnh những tài sản bảo đảm hữu hình truyền thống. Về cơ bản, thế chấp quyền tài sản phát sinh từ GDDS được hình thành dựa vào 2 yếu tố: (i) Trên cơ sở một GDDS hợp pháp, có hiệu lực pháp luật – GDDS số 1 (có thể là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, hợp đồng thuê tài sản dài hạn, hợp đồng thuê mua tài sản; hợp đồng dịch vụ…), bên có quyền trong quan hệ mang các lợi ích phát sinh từ giao dịch đó làm tài sản thế chấp để vay tiền của một chủ thể khác (bên nhận thế chấp) – GDDS số 2; (ii) Cả bên đi vay (bên thế chấp) và cho vay (bên nhận thế chấp) đều đồng ý về việc nếu đến hạn trả nợ, bên đi vay không trả được thì bên cho vay (bên nhận thế chấp) có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trong GDDS số 1 phải thực hiện các nghĩa vụ đối với mình. 

Để nhận một quyền tài sản phát sinh từ GDDS làm tài sản bảo đảm, việc đầu tiên bên nhận bảo đảm cần làm là xác định tỷ lệ cho vay phù hợp thông qua những biện pháp kỹ thuật nhằm xác định giá trị của tài sản bảo đảm. Sau khi đã xác định được tỷ lệ hợp lý giữa giá trị tài sản bảo đảm và hạn mức cho vay, bên nhận bảo đảm phải thiết lập một hệ thống quản trị rủi ro để bảo đảm rằng tài sản đó sẽ không bị thay đổi. Để hạn chế những vấn đề không thể lường trước và để trang trải các khoản phí thu hồi vốn (nếu bên cho vay buộc phải xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ), bên cho vay thường chỉ cho vay tối đa khoảng 70% giá trị tài sản bảo đảm.

Cũng như những hình thức cấp tín dụng thương mại có bảo đảm khác, để xác lập một giao dịch bảo đảm bằng quyền tài sản phát sinh từ GDDS, thông thường các ngân hàng thương mại yêu cầu bên thế chấp phải xác lập nhiều giao dịch cùng lúc, bao gồm: (1) Hợp đồng tín dụng, nội dung của hợp đồng này bao gồm một số điều khoản: Mô tả tài sản bảo đảm, tỷ lệ ứng vốn của bên cho vay, hạn mức tín dụng tối đa, các điều chỉnh về lãi suất, mức phí các bên liên quan đến tài sản bảo đảm, các cam kết của bên vay; (2) Hợp đồng thế chấp, thông qua hợp đồng này bên thế chấp cam kết dùng tài sản được xác định trong hợp đồng làm tài sản bảo đảm. Bên cho vay có thể yêu cầu lập hợp đồng bảo đảm riêng cho từng tài sản bảo đảm hoặc một hợp đồng chung cho mọi tài sản bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm được coi là một phần không thể tách rời của hợp đồng tín dụng. Xét về hiệu lực pháp lý, mối quan hệ về hiệu lực giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm được xác định là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ; (3) Đăng ký BPBĐ: Để hoàn thiện quyền ưu tiên của bên cho vay (xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba) đối với tài sản bảo đảm, bên cho vay phải đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ở Hoa Kỳ, để hoàn thiện quyền ưu tiên của bên cho vay đối với tài sản bảo đảm, bên cho vay phải đăng ký tờ khai cấp vốn có bảo đảm theo quy định tại Bộ luật Thương mại Thống nhất (UCC) với cơ quan đăng ký có thẩm quyền (thường là văn phòng đăng ký Tiểu bang) tại bang nơi bên vay được thành lập; (4) Nghị quyết vay vốn, đây là nghị quyết được thông qua bởi cơ quan cao nhất của bên vay uỷ quyền cho một cá nhân cụ thể được thay mặt cho bên vay ký hợp đồng (trong trường hợp bên vay là pháp nhân). 

Theo Nguyễn Hoàng Long

Link: Tại đây 

avatar
Lã Thị Ái Vi
682 ngày trước
Phân loại quyền tài sản
1.1.2. Phân loại quyền tài sản 1.1.2.1. Quyền tài sản có tính chất đối vật và quyền tài sản có tính chất đối nhân Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền của chủ thể, các quyền tài sản theo quy định của pháp luật hiện hành có thể được chia làm 02 (hai) nhóm, các quyền đối vật và các quyền đối nhân. Trong quan niệm của người La-tinh, khối tài sản có của một người được tạo thành từ hai loại quyền: Quyền đối vật – tức là các quyền được thực hiện trên các vật cụ thể và xác định; quyền đối nhân – bao gồm các quyền tương ứng với các nghĩa vụ tài sản mà người khác phải thực hiện vì lợi ích của người có quyền. Hiểu một cách khái quát, quyền đối vật là quyền của chủ thể được thực hiện các hành vi trực tiếp trên những vật cụ thể mà không cần sự cho phép hay hợp tác của các chủ thể khác. Các quyền tài sản thể hiện dưới dạng quyền đối vật trong BLDS năm 2015 có thể kể đến gồm: quyền sở hữu, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề; quyền của bên cầm cố đối với tài sản cầm cố… Xét về tính chất, các quyền đối vật mang những mức độ khác nhau (đầy đủ và không đầy đủ). Quyền đối vật đầy đủ toàn diện nhất được ghi nhận trong BLDS năm 2015 chính là quyền sở hữu. Nội dung quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật. Quyền sở hữu cho phép người có quyền khai thác trọn vẹn các giá trị vật chất, kinh tế của tài sản. Chính chủ sở hữu là người có quyền tối hậu định đoạt tài sản (thông qua việc bán, tặng cho, để thừa kế…). Việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản của chủ sở hữu luôn được đặt trong một giới hạn do luật định nhằm phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, của nhà nước. Ví dụ, BLDS đã đặt ra các “quyền sử dụng hạn chế” đối với bất động sản liền kề, gồm: quyền cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề; quyền tưới, tiêu nước trong canh tác; quyền về lối đi... Quyền sở hữu của chủ sở hữu cũng bị hạn chế định đoạt trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ, khi định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung, tài sản là di tích lịch sử văn hóa phải dành quyền ưu tiên mua cho các đồng chủ sở hữu chung còn lại hoặc cho Nhà nước. Bên cạnh những quyền đối vật đầy đủ còn có những quyền đối vật không đầy đủ. Điển hình cho những quyền đối vật không đầy đủ được quy định trong BLDS năm 2015 là quyền hưởng dụng (Điều 257), quyền bề mặt (Điều 267), quyền đối với bất động sản liền kề (Điều 245), quyền của bên bảo đảm đối với tài sản bảo đảm (quyền của người cầm cố đối với tài sản cầm cố, quyền của người nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp). Bản chất của những quyền này là sự phân rã của quyền sở hữu. Ở góc độ nào đó, chủ sở hữu đã chuyển giao cho các chủ thể khác một số quyền năng đối với tài sản của mình (chuyển giao quyền chiếm hữu, quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi hay lợi tức từ tài sản trong một thời hạn nhất định…) thông qua một GDDS hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp chủ sở hữu luôn giữ lại cho mình quyền định đoạt tài sản.Đối lập với các quyền đối vật là các quyền đối nhân. Quyền đối nhân được thiết lập trong mối quan hệ giữa hai người, hai chủ thể của quan hệ pháp luật. Có thể hiểu, quyền đối nhân cho phép một người yêu cầu một người khác đáp ứng đòi hỏi của mình nhằm thoả mãn một nhu cầu gắn liền với một lợi ích vật chất. Mối quan hệ giữa hai người này còn gọi là quan hệ nghĩa vụ. Bản chất quyền đối nhân là quyền của chủ thể (chủ thể quyền) được yêu cầu một chủ thể khác (chủ thể có nghĩa vụ) phải thực hiện một hành vi nhất định, nói cách khác, quyền của chủ thể quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉ được thỏa mãn thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ. Tiêu biểu cho các quyền tài sản dưới dạng quyền đối nhân theo quy định của BLDS năm 2015 gồm: quyền đòi nợ, quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm… Việc phân loại quyền tài sản thành hai nhóm, quyền tài sản có tính chất đối vật và quyền tài sản có tính chất đối nhân có ý nghĩa nhất định trong việc xây dựng phương thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền tài sản. Đối với những quyền tài sản mang bản chất của quyền đối vật, pháp luật cần có các quy định cho phép bên nhận thế chấp được quyền thu giữ tài sản hữu hình mà quyền tài sản của bên thế chấp được thiết lập trên tài sản hữu hình đấy, trong trường hợp bên thế chấp vi phạm nghĩa vụ là điều kiện xử lý tài sản bảo đảm. Đối với những quyền tài sản mang bản chất của quyền đối nhân, pháp luật cần có quy định cụ thể về nghĩa vụ của người thứ ba (người có nghĩa vụ tài sản với bên thế chấp) trước bên nhận thế chấp trong trường hợp bên nhận thế chấp đã thông báo về việc xác lập thế chấp. 1.1.2.2. Quyền tài sản có thể chuyển giao và quyền tài sản không thể chuyển giao Dưới góc độ khoa học pháp lý, một quyền tài sản nào đó có thể bị pháp luật hạn chế chuyển giao quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác bởi bản chất của quyền tài sản (các quyền tài sản này gắn liền với yếu tố nhân thân của chủ thể mang quyền hoặc chủ thể có nghĩa vụ, ví dụ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng, sức khoẻ, uy tín bị xâm phạm; quyền yêu cầu cấp dưỡng…) hoặc trong những trường hợp pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của một chủ thể khác không phải là chủ sở hữu (trường hợp quyền tài sản đang là đối tượng của một BPBĐ).Khi nhìn nhận quyền tài sản với tư cách là đối tượng của GDDS, với vai trò là luật chung của hệ thống luật tư, BLDS năm 2015 phải quy định rõ hoặc đưa ra một nguyên tắc xác định các quyền tài sản nào có thể là đối tượng của GDDS (được phép chuyển giao), các quyền tài sản nào không thể trở thành đối tượng của GDDS (không được phép chuyển giao). Khi nghiên cứu các quy định hiện có trong BLDS năm 2015, tác giả nhận thấy BLDS năm 2015 không liệt kê những quyền tài sản nào được phép chuyển giao và những quyền tài sản nào không được phép chuyển giao. Có hai vấn đề cần được rõ: Thứ nhất, liệu tất cả các quyền tài sản đều có thể trở thành đối tượng của GDDS? Thứ hai, phải chăng chỉ có những quyền tài sản cụ thể được quy định trong BLDS năm 2015 hoặc trong các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS năm 2015 mới có thể là đối tượng của các GDDS? Trước đây, BLDS năm 2005 có liệt kê các quyền tài sản được phép sử dụng làm tài sản bảo đảm bao gồm: “Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Kế thừa khoản 3 Điều 379 BLDS 2005, khoản 3 Điều 377 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ là nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các nghĩa vụ khác gắn liền với nhân thân không thể chuyển cho người khác được thì không được thay thế bằng nghĩa vụ khác”. Hiểu rộng ra, quy định này chỉ hạn chế một số quyền tài sản không được thay thế, chuyển giao trong các quan hệ nghĩa vụ như quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, uy tín và các quyền tài sản gắn liền với nhân thân khác. Theo nguyên tắc tự do ý chí, các chủ thể được làm những gì luật không cấm, điều này đồng nghĩa với việc BLDS năm 2015 cho phép một số quyền tài sản khác được chuyển giao (làm đối tượng của các GDDS), ví dụ, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm… Việc phân loại quyền tài sản thành hai nhóm: quyền tài sản có thể chuyển giao và quyền tài sản không thể chuyển giao thông qua GDDS có ý nghĩa nhất định trong việc xác định đối tượng của biện pháp thế chấp quyền tài sản. Vấn đề quan tâm hàng đầu của các bên khi xác lập biện pháp thế chấp quyền tài sản là khi có sự vi phạm nghĩa vụ, bên nhận thế chấp có quyền “bán” quyền tài sản thế chấp cho người khác để thu hồi nợ hay không. Vì lẽ đó, đối tượng của biện pháp thế chấp quyền tài sản phải là những quyền tài sản có thể chuyển giao cho người khác thông qua các GDDS. Hạn chế lớn nhất của BLDS năm 2015 là chưa có điều luật nào mang tính nguyên tắc hoặc quy định dưới dạng liệt kê cụ thể nhằm xác định rõ các quyền tài sản có thể chuyển giao hoặc không thể chuyển giao thông qua các GDDS, từ đó làm cơ sở pháp lý để các chủ thể chủ động lựa chọn đối tượng của biện pháp thế chấp nói riêng cũng như đối tượng của các GDDS nói chung. 1.1.2.3. Quyền tài sản phát sinh từ giao dịch dân sự, quyền tài sản phát sinh từ hoạt động lao động sáng tạo của con người và quyền tài sản phát sinh trên cơ sở quy định của luật Dựa trên căn cứ xác lập quyền, một cách tổng quát, các quyền tài sản có thể được phân làm ba nhóm: (i) Các quyền tài sản phát sinh từ GDDS. Nhóm quyền tài sản này có thể được phát sinh từ các hợp các đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương, mang đặc điểm của quyền đối nhân, bao gồm: quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản, quyền yêu cầu thanh toán phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp…; (ii) Các quyền tài sản phát sinh từ hoạt động lao động sáng tạo của con người (quyền tài sản đối với các đối tượng của quyền SHTT), nhóm quyền này được ghi nhận trong Luật SHTT, bao gồm: quyền tài sản trong phạm vi của quyền tác giả và các quyền liên quan; quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu công nghiệp và quyền tài sản đối với giống cây trồng; (iii) Các quyền tài sản phát sinh trên cơ sở quy định của luật, nhóm quyền tài sản dạng này mang đặc điểm của quyền đối vật, bao gồm: quyền sử dụng đất, quyền bề mặt, quyền hưởng dụng và quyền địa dịch… * Nhóm quyền tài sản phát sinh từ GDDS Hiện nay, các quyền tài sản phát sinh từ GDDS có thể trở thành đối tượng của biện pháp thế chấp và được đăng ký BPBĐ theo yêu cầu tại Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, bao gồm: (i) Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng thuê đóng tàu biển; quyền bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng mua bán tàu bay, tàu biển; quyền thụ hưởng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm đối với tàu bay, tàu biển; (ii) Các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng góp vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh nhà ở, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua nhà ở (bao gồm cả nhà ở xã hội) giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở; các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán, hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua công trình xây dựng giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng công trình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản; (iii) Phần vốn góp trong doanh nghiệp. Các quyền tài sản phát sinh từ GDDS ngày càng trở thành loại tài sản bảo đảm được ưa chuộng đối với các TCTD bên cạnh những tài sản bảo đảm hữu hình truyền thống. Về cơ bản, thế chấp quyền tài sản phát sinh từ GDDS được hình thành dựa vào 2 yếu tố: (i) Trên cơ sở một GDDS hợp pháp, có hiệu lực pháp luật – GDDS số 1 (có thể là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, hợp đồng thuê tài sản dài hạn, hợp đồng thuê mua tài sản; hợp đồng dịch vụ…), bên có quyền trong quan hệ mang các lợi ích phát sinh từ giao dịch đó làm tài sản thế chấp để vay tiền của một chủ thể khác (bên nhận thế chấp) – GDDS số 2; (ii) Cả bên đi vay (bên thế chấp) và cho vay (bên nhận thế chấp) đều đồng ý về việc nếu đến hạn trả nợ, bên đi vay không trả được thì bên cho vay (bên nhận thế chấp) có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trong GDDS số 1 phải thực hiện các nghĩa vụ đối với mình. Để nhận một quyền tài sản phát sinh từ GDDS làm tài sản bảo đảm, việc đầu tiên bên nhận bảo đảm cần làm là xác định tỷ lệ cho vay phù hợp thông qua những biện pháp kỹ thuật nhằm xác định giá trị của tài sản bảo đảm. Sau khi đã xác định được tỷ lệ hợp lý giữa giá trị tài sản bảo đảm và hạn mức cho vay, bên nhận bảo đảm phải thiết lập một hệ thống quản trị rủi ro để bảo đảm rằng tài sản đó sẽ không bị thay đổi. Để hạn chế những vấn đề không thể lường trước và để trang trải các khoản phí thu hồi vốn (nếu bên cho vay buộc phải xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ), bên cho vay thường chỉ cho vay tối đa khoảng 70% giá trị tài sản bảo đảm.Cũng như những hình thức cấp tín dụng thương mại có bảo đảm khác, để xác lập một giao dịch bảo đảm bằng quyền tài sản phát sinh từ GDDS, thông thường các ngân hàng thương mại yêu cầu bên thế chấp phải xác lập nhiều giao dịch cùng lúc, bao gồm: (1) Hợp đồng tín dụng, nội dung của hợp đồng này bao gồm một số điều khoản: Mô tả tài sản bảo đảm, tỷ lệ ứng vốn của bên cho vay, hạn mức tín dụng tối đa, các điều chỉnh về lãi suất, mức phí các bên liên quan đến tài sản bảo đảm, các cam kết của bên vay; (2) Hợp đồng thế chấp, thông qua hợp đồng này bên thế chấp cam kết dùng tài sản được xác định trong hợp đồng làm tài sản bảo đảm. Bên cho vay có thể yêu cầu lập hợp đồng bảo đảm riêng cho từng tài sản bảo đảm hoặc một hợp đồng chung cho mọi tài sản bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm được coi là một phần không thể tách rời của hợp đồng tín dụng. Xét về hiệu lực pháp lý, mối quan hệ về hiệu lực giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm được xác định là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ; (3) Đăng ký BPBĐ: Để hoàn thiện quyền ưu tiên của bên cho vay (xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba) đối với tài sản bảo đảm, bên cho vay phải đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ở Hoa Kỳ, để hoàn thiện quyền ưu tiên của bên cho vay đối với tài sản bảo đảm, bên cho vay phải đăng ký tờ khai cấp vốn có bảo đảm theo quy định tại Bộ luật Thương mại Thống nhất (UCC) với cơ quan đăng ký có thẩm quyền (thường là văn phòng đăng ký Tiểu bang) tại bang nơi bên vay được thành lập; (4) Nghị quyết vay vốn, đây là nghị quyết được thông qua bởi cơ quan cao nhất của bên vay uỷ quyền cho một cá nhân cụ thể được thay mặt cho bên vay ký hợp đồng (trong trường hợp bên vay là pháp nhân). Theo Nguyễn Hoàng LongLink: Tại đây