0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64d8fddeebabd-istockphoto-1128789429-170667a.jpg

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG ĐỐI VỚI THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH

3.1.4. Thực trạng quy định pháp luật về chính sách khoan hồng đối với thoả thuận hạn chế cạnh tranh

Ở Việt Nam, chính sách khoan hồng là một nội dung hoàn toàn mới, được thừa nhận và quy định trong Luật Cạnh tranh 2018 nhằm tăng cường hiệu quả thực thi Pháp luật cạnh tranh (PLCT). Việc ghi nhận chính sách khoan hồng trong Luật Cạnh tranh 2018 đóng vai trò rất quan trọng bởi chính nó sẽ giúp phát hiện và phá vỡ các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT) được nhanh chóng, chính xác. Thực tế, đa số các TTHCCT gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và lợi ích của người tiêu dùng thông qua các thỏa thuận về phân chia thị trường, về giá, về điều kiện giao kết hợp đồng… Tuy nhiên, các dạng thỏa thuận này lại rất khó phát hiện do có tính bí mật cao. Chính vì vậy, việc quy định chính sách khoan hồng tạo điều kiện để các chủ thể tham gia TTHCCT tự nguyện khai báo và hợp tác với các cơ quan chức năng trong quá trình điều tra để được hưởng sự miễn, giảm mức xử phạt.

Để được áp dụng chính sách khoan hồng, doanh nghiệp đó phải là thành viên của TTHCCT, phải chủ động tiếp cận cơ quan cạnh tranh để thú nhận việc họ tham gia vào thỏa thuận. Đồng thời doanh nghiệp này cũng phải ra sức hỗ trợ cơ quan cạnh tranh trong quá trình điều tra, xử lý hành vi vi phạm [67, khoản 1 Điều 112]. Còn các chủ thể là cá nhân như: người quản lý, nhân viên, người lao động trong doanh nghiệp khi tham gia vào thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm sẽ không phải là đối tượng được áp dụng chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh 2018 ngay cả khi họ tự nguyện khai báo và đây là một bất cập.

Đây là một vấn đề cần phải xem xét bởi nếu những cá nhân có liên quan đến các doanh nghiệp có TTHCCT bị cấm nhưng khi tự thú với tư cách cá nhân thì họ không được hưởng chính sách khoan hồng là một điều bất cập. Bởi mục đích của việc ghi nhận chính sách khoan hồng, quy định và thực hiện chính sách khoan hồng là để tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình tiếp cận, phát hiện và xử lý các hành vi TTHCCT nguy hiểm. Nhưng nếu chính sách này chỉ áp dụng cho các đối tượng là doanh nghiệp như Luật Cạnh tranh 2018 quy định hiện nay là chưa hợp lý, chưa tạo được động lực để các đối tượng là cá nhân chủ động tố giác hành vi vi phạm bởi dù có tố giác, tự thú thì họ cũng không được hưởng chính sách khoan hồng, từ đó dẫn đến không phát huy được mục tiêu kịp thời phát hiện sớm các TTHCCT nguy hiểm mà chính sách khoan hồng hướng đến.

Về điều kiện áp dụng chính sách khoan hồng

Thứ nhất, doanh nghiệp đã hoặc đang tham gia với vai trò là một bên của TTHCCT. Như vậy, để được hưởng chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh 2018 thì đòi hỏi doanh nghiệp đó phải là một bên của TTHCCT, còn trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm PLCT mà không phải là một bên của TTHCCT bị cấm thì sẽ không được hưởng chính sách khoan hồng theo Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018.

Thứ hai, doanh nghiệp phải tự nguyện khai báo hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra. Quy định này đưa ra giới hạn về thời gian khai báo. Theo đó doanh nghiệp chỉ được hưởng chính sách khoan hồng nếu doanh nghiệp tự nguyện khai báo với cơ quan có thẩm quyền trước khi cơ quan này ra quyết định điều tra. Điều kiện này tạo ra sức ép về mặt thời gian buộc các doanh nghiệp phải nhanh chóng đưa ra quyết định có chủ động khai báo đúng thời hạn để đổi lấy sự khoan hồng hay không. Tuy nhiên, nếu chỉ áp dụng chính sách khoan hồng cho những doanh nghiệp tự nguyện khai báo trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra thì hiệu quả mà chính sách khoan hồng mang lại sẽ không phát huy được tính triệt để. Bởi khi doanh nghiệp khai báo hành vi vi phạm sau thời điểm cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra thì sẽ không được hưởng chính sách khoan hồng, chính điều này sẽ khiến các doanh nghiệp che giấu sự thật, tẩu tán chứng cứ, thoái thác trách nhiệm vì họ không nhận được lợi ích nào từ việc khai báo với CQCT.

Thứ ba, doanh nghiệp khai báo trung thực và cung cấp toàn bộ thông tin, chứng cứ có được về hành vi vi phạm, có giá trị đáng kể cho việc phát hiện, điều tra và xử lý hành vi vi phạm. Đây là quy định nhằm khuyến khích doanh nghiệp lưu giữ lại các chứng cứ quan trọng trong quá trình doanh nghiệp tham gia TTHCCT. Theo điều kiện này, doanh nghiệp muốn được hưởng chính sách khoan hồng thì việc tự nguyện khai báo không là chưa đủ mà doanh nghiệp còn phải thiện chí trong việc cung cấp chứng cứ và thông tin liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Thứ tư, chủ thể của thoả thuận phải hợp tác đầy đủ với cơ quan có thẩm quyền trong suốt quá trình điều tra và xử lý hành vi vi phạm. Sự hợp tác ở đây không chỉ gói gọn trong việc cung cấp thông tin, chứng cứ mà còn bao gồm cả việc tuân thủ các yêu cầu hợp pháp của các cơ quan có thẩm quyền để phục vụ hiệu quả cho công tác điều tra, xử lý vi phạm.

Về số lượng doanh nghiệp và căn cứ xác định doanh nghiệp được hưởng khoan hồng

Theo quy định tại khoản 5 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 “Chính sách khoan hồng áp dụng cho không quá 03 doanh nghiệp đầu tiên nộp đơn xin hưởng khoan hồng đến Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều này”. Với quy định này, số lượng doanh nghiệp được hưởng chính sách khoan hồng chỉ dừng lại ở mức là 03 doanh nghiệp. Việc xác định doanh nghiệp được hưởng chính sách khoan hồng sẽ dựa vào ba căn cứ sau: thứ tự khai báo, thời điểm khai báo, mức độ trung thực và giá trị của các thông tin, chứng cứ đã cung cấp.

Về mức độ miễn, giảm mức phạt tiền theo chính sách khoan hồng

Theo quy định tại khoản 7 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018, có 02 mức độ cho sự khoan hồng đó là miễn hoàn toàn mức phạt và giảm mức phạt. Theo đó, doanh nghiệp đầu tiên có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ điều kiện quy định được miễn 100% mức xử phạt. Doanh nghiệp thứ hai và thứ ba có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ điều kiện quy định lần lượt được giảm 60% và 40% mức xử phạt. Việc miễn hoặc giảm các mức phạt được xem là phần thưởng dành cho sự tự thú. Mức thưởng cao nhất chính là miễn trừ hoàn toàn mức phạt có nguy cơ bị áp dụng cho chủ thể có hành vi vi phạm.

Theo: Trần Thị Nguyệt

Link luận án: Tại đây

avatar
Thanh Huyền
734 ngày trước
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG ĐỐI VỚI THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
3.1.4. Thực trạng quy định pháp luật về chính sách khoan hồng đối với thoả thuận hạn chế cạnh tranhỞ Việt Nam, chính sách khoan hồng là một nội dung hoàn toàn mới, được thừa nhận và quy định trong Luật Cạnh tranh 2018 nhằm tăng cường hiệu quả thực thi Pháp luật cạnh tranh (PLCT). Việc ghi nhận chính sách khoan hồng trong Luật Cạnh tranh 2018 đóng vai trò rất quan trọng bởi chính nó sẽ giúp phát hiện và phá vỡ các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT) được nhanh chóng, chính xác. Thực tế, đa số các TTHCCT gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và lợi ích của người tiêu dùng thông qua các thỏa thuận về phân chia thị trường, về giá, về điều kiện giao kết hợp đồng… Tuy nhiên, các dạng thỏa thuận này lại rất khó phát hiện do có tính bí mật cao. Chính vì vậy, việc quy định chính sách khoan hồng tạo điều kiện để các chủ thể tham gia TTHCCT tự nguyện khai báo và hợp tác với các cơ quan chức năng trong quá trình điều tra để được hưởng sự miễn, giảm mức xử phạt.Để được áp dụng chính sách khoan hồng, doanh nghiệp đó phải là thành viên của TTHCCT, phải chủ động tiếp cận cơ quan cạnh tranh để thú nhận việc họ tham gia vào thỏa thuận. Đồng thời doanh nghiệp này cũng phải ra sức hỗ trợ cơ quan cạnh tranh trong quá trình điều tra, xử lý hành vi vi phạm [67, khoản 1 Điều 112]. Còn các chủ thể là cá nhân như: người quản lý, nhân viên, người lao động trong doanh nghiệp khi tham gia vào thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm sẽ không phải là đối tượng được áp dụng chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh 2018 ngay cả khi họ tự nguyện khai báo và đây là một bất cập.Đây là một vấn đề cần phải xem xét bởi nếu những cá nhân có liên quan đến các doanh nghiệp có TTHCCT bị cấm nhưng khi tự thú với tư cách cá nhân thì họ không được hưởng chính sách khoan hồng là một điều bất cập. Bởi mục đích của việc ghi nhận chính sách khoan hồng, quy định và thực hiện chính sách khoan hồng là để tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình tiếp cận, phát hiện và xử lý các hành vi TTHCCT nguy hiểm. Nhưng nếu chính sách này chỉ áp dụng cho các đối tượng là doanh nghiệp như Luật Cạnh tranh 2018 quy định hiện nay là chưa hợp lý, chưa tạo được động lực để các đối tượng là cá nhân chủ động tố giác hành vi vi phạm bởi dù có tố giác, tự thú thì họ cũng không được hưởng chính sách khoan hồng, từ đó dẫn đến không phát huy được mục tiêu kịp thời phát hiện sớm các TTHCCT nguy hiểm mà chính sách khoan hồng hướng đến.Về điều kiện áp dụng chính sách khoan hồngThứ nhất, doanh nghiệp đã hoặc đang tham gia với vai trò là một bên của TTHCCT. Như vậy, để được hưởng chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh 2018 thì đòi hỏi doanh nghiệp đó phải là một bên của TTHCCT, còn trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm PLCT mà không phải là một bên của TTHCCT bị cấm thì sẽ không được hưởng chính sách khoan hồng theo Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018.Thứ hai, doanh nghiệp phải tự nguyện khai báo hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra. Quy định này đưa ra giới hạn về thời gian khai báo. Theo đó doanh nghiệp chỉ được hưởng chính sách khoan hồng nếu doanh nghiệp tự nguyện khai báo với cơ quan có thẩm quyền trước khi cơ quan này ra quyết định điều tra. Điều kiện này tạo ra sức ép về mặt thời gian buộc các doanh nghiệp phải nhanh chóng đưa ra quyết định có chủ động khai báo đúng thời hạn để đổi lấy sự khoan hồng hay không. Tuy nhiên, nếu chỉ áp dụng chính sách khoan hồng cho những doanh nghiệp tự nguyện khai báo trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra thì hiệu quả mà chính sách khoan hồng mang lại sẽ không phát huy được tính triệt để. Bởi khi doanh nghiệp khai báo hành vi vi phạm sau thời điểm cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra thì sẽ không được hưởng chính sách khoan hồng, chính điều này sẽ khiến các doanh nghiệp che giấu sự thật, tẩu tán chứng cứ, thoái thác trách nhiệm vì họ không nhận được lợi ích nào từ việc khai báo với CQCT.Thứ ba, doanh nghiệp khai báo trung thực và cung cấp toàn bộ thông tin, chứng cứ có được về hành vi vi phạm, có giá trị đáng kể cho việc phát hiện, điều tra và xử lý hành vi vi phạm. Đây là quy định nhằm khuyến khích doanh nghiệp lưu giữ lại các chứng cứ quan trọng trong quá trình doanh nghiệp tham gia TTHCCT. Theo điều kiện này, doanh nghiệp muốn được hưởng chính sách khoan hồng thì việc tự nguyện khai báo không là chưa đủ mà doanh nghiệp còn phải thiện chí trong việc cung cấp chứng cứ và thông tin liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.Thứ tư, chủ thể của thoả thuận phải hợp tác đầy đủ với cơ quan có thẩm quyền trong suốt quá trình điều tra và xử lý hành vi vi phạm. Sự hợp tác ở đây không chỉ gói gọn trong việc cung cấp thông tin, chứng cứ mà còn bao gồm cả việc tuân thủ các yêu cầu hợp pháp của các cơ quan có thẩm quyền để phục vụ hiệu quả cho công tác điều tra, xử lý vi phạm.Về số lượng doanh nghiệp và căn cứ xác định doanh nghiệp được hưởng khoan hồngTheo quy định tại khoản 5 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 “Chính sách khoan hồng áp dụng cho không quá 03 doanh nghiệp đầu tiên nộp đơn xin hưởng khoan hồng đến Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều này”. Với quy định này, số lượng doanh nghiệp được hưởng chính sách khoan hồng chỉ dừng lại ở mức là 03 doanh nghiệp. Việc xác định doanh nghiệp được hưởng chính sách khoan hồng sẽ dựa vào ba căn cứ sau: thứ tự khai báo, thời điểm khai báo, mức độ trung thực và giá trị của các thông tin, chứng cứ đã cung cấp.Về mức độ miễn, giảm mức phạt tiền theo chính sách khoan hồngTheo quy định tại khoản 7 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018, có 02 mức độ cho sự khoan hồng đó là miễn hoàn toàn mức phạt và giảm mức phạt. Theo đó, doanh nghiệp đầu tiên có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ điều kiện quy định được miễn 100% mức xử phạt. Doanh nghiệp thứ hai và thứ ba có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ điều kiện quy định lần lượt được giảm 60% và 40% mức xử phạt. Việc miễn hoặc giảm các mức phạt được xem là phần thưởng dành cho sự tự thú. Mức thưởng cao nhất chính là miễn trừ hoàn toàn mức phạt có nguy cơ bị áp dụng cho chủ thể có hành vi vi phạm.Theo: Trần Thị NguyệtLink luận án: Tại đây