
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC
2.3 Các yếu tố tác động đến pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường nước
2.3.1. Yếu tố chính trị
Hoạt động bảo vệ môi trường (BVMT) nói chung, kiểm soát ô nhiễm nói riêng luôn được hệ thống chính trị bao gồm Đảng và Nhà nước thường xuyên quan tâm, chỉ đạo, thể hiện ở các chủ trương, chính sách, đường lối được cụ thể hóa thông qua quy định pháp luật.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường nước kiểm soát ô nhiễm môi trường nước (KSONMTN) như Luật BVMT, Luật tài nguyên nước (TNN), Luật Biển Việt Nam, Bộ luật Hàng hải,... và nhiều văn bản hướng dẫn khác nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng. Đây là cơ sở rất quan trọng để Nhà nước ta hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường nước nói riêng.
2.3.2. Yếu tố kinh tế
Kinh tế và pháp luật luôn có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, kinh tế phát triển dẫn đến hình thành nhiều quan hệ xã hội mới đỏi hỏi pháp luật phải điều chỉnh để kịp thời đáp ứng nhu cầu quản lý xã hội. Ngược lại các quy định pháp luật có tính dự báo, hợp lý sẽ kích thích phát triển kinh tế bằng việc tạo ra hành lang pháp lý để các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh một cách công bằng, tích cực.
Sự phát triển kinh tế trực tiếp tác động tới pháp luật từ hai nhu cầu cấp thiết:
i) nhu cầu xây dựng khung pháp luật bảo vệ môi trường nhằm đạt mục tiêu cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, khuyến khích các chủ thể thực hiện phát triển bền vững và hạn chế các hành vi hủy hoại môi trường vì lợi ích kinh tế trước mắt.
ii) ngăn chặn, răn đe và xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã kế thừa thành tựu lập pháp của các nước phát triển trên thế giới ở nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực BVMT... Nhờ vậy, hệ thống pháp luật BVMT nói chung, pháp luật KSONMTN nói riêng ở Việt Nam dần được hoàn thiện. Nhìn chung, hệ thống pháp luật về KSONMTN, tuy còn một số điểm hạn chế, đã trở thành một trong những công cụ hữu hiệu, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác BVMT trên phạm vi cả nước, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.
2.3.3 Yếu tố quốc tế
Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã từng bước chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Việc tham gia vào các thể chế kinh tế quốc tế, các thỏa thuận môi trườngquốc tế đặt ra nhiều yêu cầu mới trong việc phải cải thiện hệ thống luật pháp liên quan đến bảo vệ môi trường. Theo đó, các cam kết bảo vệ môi trường theo các thỏa thuận song phương và đa phương sẽ đặt ra nhiều tiêu chuẩn hơn đối với hệ thống pháp luật trong việc bảo vệ môi trường.
Mặt khác, chúng ta nhận thấy rằng phần lớn các hệ thống sông lớn của Việt Nam đều có liên quan đến nước ngoài. Tình trạng suy thoái, ô nhiễm nước tại Việt Nam có một phần bắt nguồn từ hoạt động của các quốc gia láng giềng, điều này làm ảnh hưởng đến khả năng sử dụng nước ở hạ lưu, đe dọa sức khỏe con người và chức năng của hệ sinh thái nước. Thực trạng này đặt ra vấn đề đối với việc phải kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng dân cư trong việc quản lý MTN.
Để thực hiện được nguyên tắc này, chúng ta cần tích cực tham gia và tuân thủ các công ước, hiệp định quốc tế về môi trường đồng thời với việc ban hành các văn bản quốc gia về luật pháp, tiêu chuẩn, quy định. Việc kết hợp các mục tiêu này được thực hiện thông qua các quy định luật pháp, các chương trình hành động, các đề tài hợp tác quốc tế và khu vực.
2.3.4. Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lí khác, thể hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật và sự đánh giả về mức độ công bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay không hợp pháp...
Ý thức pháp luật luôn chịu sự tác động đa chiều của nhiều yếu tố như nền tảng kinh tế, kết cấu xã hội, tương quan so sánh lực lượng, quan điểm, tư tưởng của lực lượng cầm quyền, xu thế thời đại...
Trong đời sống pháp lí, ý thức pháp luật là nhân tố đóng vai trò quyết định chi phối trực tiếp đến tính chất, hiệu quả thực tế của các hoạt động pháp lí.
Thực tế cho thấy việc thực thi pháp luật KSONMTN ở Việt Nam chưa đạt hiệu quả như mong muốn có một phần không nhỏ do ý thức pháp luật, cụ thể là sự thờ ơ, chưa coi trọng BVMT từ cả phía cộng đồng cũng như doanh nghiệp. Ví dụ, việc thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt hằng ngày không đúng quy định, như rác thải không được thu gom, phân loại và xử lý phù hợp, cùng với việc thu gom rác thải vào nơi quy định còn chưa được thực hiện tốt, vẫn còn tình trạng vứt rác thải bừa bãi và hình thành nhiều điểm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Vì vậy, pháp luật KSONMTN cần tính đến các đặc trưng ý thức pháp luật để xây dựng quy định hợp lý, có tính ngăn ngừa và dự báo, song song với việc tuyên truyền, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật và bảo vệ môi trường sống trong lành.
Theo: Hồ Anh Tuấn
Link luận án: Tại đây
