
Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới
2.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới
2.1.1. Khái niệm kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới
2.1.1.1. Khái niệm hàng hóa nhập khẩu qua biên giới
Lịch sử phát triển minh chứng rằng, các quốc gia không thể tồn tại biệt lập mà không có quan hệ với thế giới bên ngoài. Trong lĩnh vực kinh tế, liên kết thương mại yêu cầu các nước phải phụ thuộc lẫn nhau, tăng cường thúc đẩy phát triển trên cơ sở hợp tác cùng có lợi. Nếu “quay lưng” lại với tự do hóa, liên kết hóa kinh tế giữa khu vực, thế giới thì tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Xác định tầm quan trọng của liên kết, hợp tác kinh tế sẽ hình thành các quan hệ hợp tác trên bình diện song phương, đa phương, thiết lập các hiệp định thương mại tự do, hiệp định về hải quan... tùy thuộc vào mức độ, nhu cầu cũng như mục tiêu của các chủ thể trong thương mại quốc tế. Theo đó, trong thương mại quốc tế, việc thực hiện xuất nhập khẩu là hoạt động thường xuyên, hàng hóa được xuất ra khỏi thị trường nội địa, nhập khẩu vào lãnh thổ tăng cơ hội thông thương hàng hóa giữa các nước với nhau.
Trao đổi, mua bán hàng hóa được hình thành sớm trong lịch sử. Theo đó, khái niệm hàng hóa bắt đầu xuất hiện khi có sự trao đổi mua bán trên thị trường. Mỗi thời kỳ hàng hóa được lưu thông, dịch chuyển khác nhau phụ thuộc vào mối quan hệ về chính trị ngoại giao, nhu cầu thương mại, vị trí địa lý, sự phát triển của khoa học công nghệ các nước. Qua tìm hiểu, có thể thấy, hàng hóa là những sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Theo Khoản 2 Điều 3 Luật thương mại 2005 [58] thì hàng hóa gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai. Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định mua bán hàng hóa trong khái niệm về hoạt động thương mại: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Khoản 1 Điều 4 Luật giá 2012 quy định, hàng hóa là tài sản có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, bao gồm các loại động sản và bất động sản.
Khoản 6 Điều 4 Luật hải quan 2014 thì hàng hóa bao gồm động sản có tên gọi và mã số theo danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc được lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan.
Từ những quy định và luận giải trên, có thể hiểu, hàng hóa là một khái niệm đa dạng và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy, khi tiếp cận khái niệm về hàng hóa phải đáp ứng được các tiêu chí như về tên gọi, mã số, tài sản có thể lưu thông trên thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội. Khi thương mại quốc tế mới xuất hiện, hàng hóa dịch chuyển trong phạm vi hẹp, khung pháp lý đơn giản. Nhưng dần dần, sự hội nhập, thông thương buôn bán giữa các nước nhiều hơn thì sản phẩm hàng hóa được dịch chuyển có tính đa dạng, phạm vi trao đổi, mua bán mở rộng hơn ở chủ thể, đối tượng và phạm vi.
Về khái niệm nhập khẩu, theo Từ điển Tiếng Việt [56], nhập khẩu là đưa hàng hoá hay tư bản của nước ngoài vào nước mình; phân biệt với xuất khẩu. Như vậy, có thể hiểu nhập khẩu là một hoạt động mà hàng hóa hay tư bản được đưa vào lãnh thổ một quốc gia nào khác và có yếu tố nước ngoài.
Theo tác giả Bùi Xuân Lưu, thì “Nhập khẩu là mua hàng hoá, dịch vụ của nước ngoài”. Đó là khâu cơ bản của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh, buôn bán diễn ra trên phạm vi toàn thế giới với nhiều cấp độ khác nhau. Nhập khẩu không chỉ thể hiện đối với hoạt động trao đổi, buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền kinh tế có tổ chức bên trong và bên ngoài. Nhập khẩu còn thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay xu hướng liên kết toàn cầu và khu vực làm cho mức độ ảnh hưởng, tác động của từng quốc gia đối với nhau và của từng khu vực kinh tế thế giới ngày một tăng.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 28 Luật thương mại 2005 [58] thì “Nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”.
Có thể hiểu rằng, hàng hóa nhập khẩu là hàng hóa được dịch chuyển thuộc danh mục quy định pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế hay tiền lệ pháp do các bên xây dựng được làm thủ tục hải quan qua biên giới.
Như vậy, theo nghiên cứu sinh có thể hiểu hàng hóa nhập khẩu qua biên giới là hoạt động thương mại, theo đó hàng hóa được dịch chuyển vào lãnh thổ hải quan của một nước khác, được cơ quan hải quan và các cơ quan chức năng tiến hành kiểm soát theo đúng quy định theo một trình tự, thủ tục thống nhất.
2.1.1.2. Khái niệm kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới
Hiện tại còn nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau về khái niệm “kiểm soát” và dường như chưa có một định nghĩa thống nhất, mang tính chuẩn mực về vấn đề này. Theo từ điển Tiếng Việt, “Kiểm soát là sự xem xét để phát hiện ngăn chặn những gì trái với quy định” .
Tiếp cận từ góc độ khoa học quản lý, các tác giả Schoderbeck, Cosier và Aplin (1988) cho rằng “kiểm soát” là hoạt động đánh giá và chỉnh sửa những lệch lạc so với tiêu chuẩn đã được xác định. Kiểm soát do đó bao gồm các hoạt động như: thiết lập tiêu chuẩn, đánh giá thực tế bằng cách so sánh thực tế với tiêu chuẩn, chỉnh sửa những lệch lạc từ thực tế so với tiêu chuẩn đã xác lập… Cũng tiếp cận ở góc độ này, các tác giả Jones và George (2003) cho rằng kiểm soát là “quá trình mà cơ quan chức năng giám sát và điều tiết tính hiệu quả trong hoạt động của một tổ chức hay cá nhân. “Kiểm soát” cũng có nghĩa là giữ cho cho hoạt động của tổ chức, cá nhân theo đúng định hướng và dự kiến các sự kiện có thể xảy ra” .
Kiểm soát được hiểu là tổng thể các phương pháp để nắm bắt và điều hành đối tượng quản lý. Như vậy, kiểm soát là một chức năng quan trọng và không thể tách rời trong hoạt động quản lý nhà nước đối với một lĩnh vực cụ thể. Đó là quá trình đánh giá và tác động lên đối tượng kiểm soát nhằm đảm bảo sự tuân thủ các chính sách, các kế hoạch và các quy định pháp luật hiện hành, đảm bảo các hoạt động được diễn ra theo đúng mục tiêu đã định.
Theo tác giả Nguyễn Quang Quynh , “Kiểm soát được hiểu là tổng thể các phương sách để nắm lấy và điều hành các đối tượng hoặc khách thể quản lý. Theo đó, kiểm soát được hiểu là cấp trên kiểm soát cấp dưới thông qua các biện pháp hoặc chính sách; đơn vị này kiểm soát đơn vị khác thông qua việc ảnh hưởng hoặc chi phối đáng kể dựa trên quyền lợi và lợi ích; nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông qua nội quy, quy chế”.
Theo: Trần Viết Long
Link luận án: Tại đây
