0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64c624f60d129-Chủ-thể-trong-quan-hệ-pháp-luật-tiêu-dùng.jpg.webp

Chủ thể trong quan hệ pháp luật tiêu dùng

Quan hệ pháp luật tiêu dùng là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội (trao đổi hàng hóa, dịch vụ) giữa người bán và người mua đối với hàng hóa, giữa bên cung ứng dịch vụ và bên thụ hưởng dịch vụ… Quan hệ pháp luật tiêu dùng hình thành trên cơ sở các quy phạm pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ với những mục đích cụ thể, được áp dụng khi phát sinh sự kiện pháp lý. Quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được coi là trọng tâm trong nội dung quan hệ pháp luật tiêu dùng, các quy phạm pháp luật chuyên ngành khác có ý nghĩa bổ trợ trong từng mối quan hệ tương ứng.

Quan hệ pháp luật tiêu dùng được hình thành bởi ba thành tố cơ bản: (i) Chủ thể, (ii) Khách thể và (iii) Nội dung.

2.1.1. Chủ thể trong quan hệ pháp luật tiêu dùng

Tham gia vào quan hệ pháp luật tiêu dùng, chủ thể bao hàm hai đối tượng cơ bản là đối tượng thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ (sau đây gọi chung là “Người tiêu dùng”) và đối tượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Luật BVQLNTD năm 2010 của Việt Nam định nghĩa trên cơ sở đặc thù quản lý hoạt động thương mại, cụ thể Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: thương nhân theo quy định của Luật thương mại và cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh [61]. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án này, chủ thể chỉ được giới hạn trong phạm vi quan hệ giữa người tiêu dùng với thương nhân. Sáu nhóm đối tượng là cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau đây: buôn bán rong (buôn bán dạo), buôn bán vặt; bán quà vặt; buôn chuyến và các hoạt động thương mại dịch vụ nhỏ lẻ khác ghi nhận tại Nghị định số 39/2007/NĐ-CP [9] được loại trừ trong phạm vi nghiên cứu này.

2.2.Khái niệm Người tiêu dùng:

Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng ban hành năm 1985, sửa đổi năm 1999 dù không đưa ra một khái niệm rõ ràng, tuy nhiên, trên cơ sở diễn giải của CI (Consumers International), khái niệm người tiêu dùng được cá thể hóa bởi 8 quyền năng cơ bản bao gồm:

(i)     Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;

(ii)    Quyền được an toàn;

(iii)   Quyền được thông tin;

(iv)   Quyền được lựa chọn;

(v)    Quyền được lắng nghe;

(vi)   Quyền được khiếu nại và bồi thường;

(vii)  Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng; và

(viii) Quyền được có môi trường sống lành mạnh bền vững.

Pháp luật nội địa của các quốc gia cũng có sự khác nhau trong quy định khái niệm “Người tiêu dùng”, tuy nhiên có thể xác định theo các trường phái quy định sau đây:

(i)  Quy định theo đối tượng: Điều 1(e) Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Bang Quebec, Điều 1 Luật Bảo vệ người tiêu dùng và các hành vi kinh doanh của Bang British Columbia quy định rõ “người tiêu dùng là tự nhiên nhân (thể nhân)” không có quan hệ mua hàng theo hợp đồng với nhà sản xuất, kinh doanh mà chỉ là người sử dụng và thụ hưởng hàng hóa dịch vụ. Khác với luật pháp các quốc gia, nội hàm khái niệm người tiêu dùng lại được làm rõ trong một phán quyết của Tòa án Công lý Châu Âu năm 1991, trong đó cùng với việc bác bỏ đề nghị ghi nhận doanh nghiệp mua sản phẩm, dịch vụ vì mục đích phi lợi nhuận là một dạng “người tiêu dùng”, khẳng định rõ “người tiêu dùng là bất cứ tự nhiên nhân (thể nhân) nào…” tại Chỉ thị số 1999/44/EC về mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan .

(ii)  Quy định theo mục tiêu: Luật bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan ban hành ngày 11/01/1994, bổ sung năm 2005 ghi nhận Người tiêu dùng là “người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu dùng”, không phân biệt thể nhân hay pháp nhân. Tương tự, Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Ấn Độ năm 1986 cũng có quy định gần tương tự tại Điều 2(1d): Người tiêu dùng là bất cứ người nào mua … hàng hóa… mà không có mục đích để bán lại hoặc vì mục đích thương mại khác và Điều 2(1m) giải thích chữ “người” (nhân) ở đây được hiểu bao gồm: hãng (doanh nghiệp), cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ chức xã hội [122]. Một cách cụ thể hơn, Luật bảo vệ người tiêu dùng Malaysia năm 1999 ghi nhận các đối tượng là người tiêu dùng khi tiếp nhận hàng hóa dịch vụ vì mục đích sử dụng cá nhân, hộ gia đình, không vì mục đích thương mại, sản xuất. Pháp luật Việt Nam cũng lựa chọn phương thức này để điều chỉnh khái niệm người tiêu dùng. Cụ thể, Điều 3.1 Luật BVQLNTD năm 2010 quy định: Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.

Như vậy về cơ bản, “Người tiêu dùng” trong quan hệ pháp luật tiêu dùng tuy khác nhau về chủ thể là pháp nhân hay thể nhân, nhưng đều thống nhất về quan điểm là đối tượng thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng vì nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt riêng, không vì mục tiêu thương mại. Người tiêu dùng không nhất thiết phải là người mua hàng trực tiếp để sử dụng vào mục đích sinh hoạt cá nhân mà có thể là người thụ hưởng gián tiếp hàng hóa, dịch vụ do người khác mua [5, tr.4]. Ví dụ: người sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người trong gia đình mua sắm cũng được coi là người tiêu dùng. Quan điểm này tách người tiêu dùng ra khỏi chuỗi phân phối hàng hóa, dịch vụ, chỉ đóng vai trò là điểm cuối cùng và mục tiêu của chuỗi phân phối, đồng thời tạo cơ sở phân biệt quan hệ pháp luật tiêu dùng với các quan hệ pháp luật thương mại khác

Theo: Nguyễn Trọng Điệp  

Link luận án:  Tại đây

avatar
Dang thu quynh
635 ngày trước
Chủ thể trong quan hệ pháp luật tiêu dùng
Quan hệ pháp luật tiêu dùng là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội (trao đổi hàng hóa, dịch vụ) giữa người bán và người mua đối với hàng hóa, giữa bên cung ứng dịch vụ và bên thụ hưởng dịch vụ… Quan hệ pháp luật tiêu dùng hình thành trên cơ sở các quy phạm pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ với những mục đích cụ thể, được áp dụng khi phát sinh sự kiện pháp lý. Quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được coi là trọng tâm trong nội dung quan hệ pháp luật tiêu dùng, các quy phạm pháp luật chuyên ngành khác có ý nghĩa bổ trợ trong từng mối quan hệ tương ứng.Quan hệ pháp luật tiêu dùng được hình thành bởi ba thành tố cơ bản: (i) Chủ thể, (ii) Khách thể và (iii) Nội dung.2.1.1. Chủ thể trong quan hệ pháp luật tiêu dùngTham gia vào quan hệ pháp luật tiêu dùng, chủ thể bao hàm hai đối tượng cơ bản là đối tượng thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ (sau đây gọi chung là “Người tiêu dùng”) và đối tượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Luật BVQLNTD năm 2010 của Việt Nam định nghĩa trên cơ sở đặc thù quản lý hoạt động thương mại, cụ thể Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: thương nhân theo quy định của Luật thương mại và cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh [61]. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án này, chủ thể chỉ được giới hạn trong phạm vi quan hệ giữa người tiêu dùng với thương nhân. Sáu nhóm đối tượng là cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau đây: buôn bán rong (buôn bán dạo), buôn bán vặt; bán quà vặt; buôn chuyến và các hoạt động thương mại dịch vụ nhỏ lẻ khác ghi nhận tại Nghị định số 39/2007/NĐ-CP [9] được loại trừ trong phạm vi nghiên cứu này.2.2.Khái niệm Người tiêu dùng:Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng ban hành năm 1985, sửa đổi năm 1999 dù không đưa ra một khái niệm rõ ràng, tuy nhiên, trên cơ sở diễn giải của CI (Consumers International), khái niệm người tiêu dùng được cá thể hóa bởi 8 quyền năng cơ bản bao gồm:(i)     Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;(ii)    Quyền được an toàn;(iii)   Quyền được thông tin;(iv)   Quyền được lựa chọn;(v)    Quyền được lắng nghe;(vi)   Quyền được khiếu nại và bồi thường;(vii)  Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng; và(viii) Quyền được có môi trường sống lành mạnh bền vững.Pháp luật nội địa của các quốc gia cũng có sự khác nhau trong quy định khái niệm “Người tiêu dùng”, tuy nhiên có thể xác định theo các trường phái quy định sau đây:(i)  Quy định theo đối tượng: Điều 1(e) Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Bang Quebec, Điều 1 Luật Bảo vệ người tiêu dùng và các hành vi kinh doanh của Bang British Columbia quy định rõ “người tiêu dùng là tự nhiên nhân (thể nhân)” không có quan hệ mua hàng theo hợp đồng với nhà sản xuất, kinh doanh mà chỉ là người sử dụng và thụ hưởng hàng hóa dịch vụ. Khác với luật pháp các quốc gia, nội hàm khái niệm người tiêu dùng lại được làm rõ trong một phán quyết của Tòa án Công lý Châu Âu năm 1991, trong đó cùng với việc bác bỏ đề nghị ghi nhận doanh nghiệp mua sản phẩm, dịch vụ vì mục đích phi lợi nhuận là một dạng “người tiêu dùng”, khẳng định rõ “người tiêu dùng là bất cứ tự nhiên nhân (thể nhân) nào…” tại Chỉ thị số 1999/44/EC về mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan .(ii)  Quy định theo mục tiêu: Luật bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan ban hành ngày 11/01/1994, bổ sung năm 2005 ghi nhận Người tiêu dùng là “người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu dùng”, không phân biệt thể nhân hay pháp nhân. Tương tự, Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Ấn Độ năm 1986 cũng có quy định gần tương tự tại Điều 2(1d): Người tiêu dùng là bất cứ người nào mua … hàng hóa… mà không có mục đích để bán lại hoặc vì mục đích thương mại khác và Điều 2(1m) giải thích chữ “người” (nhân) ở đây được hiểu bao gồm: hãng (doanh nghiệp), cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ chức xã hội [122]. Một cách cụ thể hơn, Luật bảo vệ người tiêu dùng Malaysia năm 1999 ghi nhận các đối tượng là người tiêu dùng khi tiếp nhận hàng hóa dịch vụ vì mục đích sử dụng cá nhân, hộ gia đình, không vì mục đích thương mại, sản xuất. Pháp luật Việt Nam cũng lựa chọn phương thức này để điều chỉnh khái niệm người tiêu dùng. Cụ thể, Điều 3.1 Luật BVQLNTD năm 2010 quy định: Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.Như vậy về cơ bản, “Người tiêu dùng” trong quan hệ pháp luật tiêu dùng tuy khác nhau về chủ thể là pháp nhân hay thể nhân, nhưng đều thống nhất về quan điểm là đối tượng thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng vì nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt riêng, không vì mục tiêu thương mại. Người tiêu dùng không nhất thiết phải là người mua hàng trực tiếp để sử dụng vào mục đích sinh hoạt cá nhân mà có thể là người thụ hưởng gián tiếp hàng hóa, dịch vụ do người khác mua [5, tr.4]. Ví dụ: người sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người trong gia đình mua sắm cũng được coi là người tiêu dùng. Quan điểm này tách người tiêu dùng ra khỏi chuỗi phân phối hàng hóa, dịch vụ, chỉ đóng vai trò là điểm cuối cùng và mục tiêu của chuỗi phân phối, đồng thời tạo cơ sở phân biệt quan hệ pháp luật tiêu dùng với các quan hệ pháp luật thương mại khácTheo: Nguyễn Trọng Điệp  Link luận án:  Tại đây