Quy định luật về tuyên bố người chết và hậu quả pháp lý liên quan
Người bị tuyên bố chết và quy định pháp luật
Người bị tuyên bố chết là người mà Tòa án có thẩm quyền quyết định đã qua các trường hợp sau:
1. Sau 03 năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật, không có tin tức xác thực cho thấy người đó còn sống.
2. Sau 05 năm kể từ ngày kết thúc chiến tranh, không có tin tức xác thực cho thấy người đó còn sống trong trường hợp biệt tích trong chiến tranh.
3. Sau 02 năm kể từ ngày tai nạn, thảm họa, thiên tai chấm dứt mà không có tin tức xác thực cho thấy người đó còn sống. Tuy nhiên, ngoại trừ các trường hợp được quy định khác trong pháp luật.
4. Biệt tích trong vòng 05 năm liên tiếp và không có tin tức xác thực cho thấy người đó còn sống. Thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật Dân sự 2015.
Quyết định tuyên bố chết được Tòa án đưa ra dựa trên yêu cầu của những người có quyền và lợi ích liên quan đến người bị tuyên bố chết. Theo Điều 393 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố một người đã chết sau khi chấp nhận đơn yêu cầu.
Hậu quả pháp lý khi tuyên bố một người là đã chết
Khi một người bị tuyên bố đã chết, từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực, người đó mất tư cách chủ thể hoàn toàn trong các quan hệ dân sự theo Điều 72 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể:
- Quan hệ nhân thân như hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người bị tuyên bố chết được giải quyết như đối với người đã chết.
- Quan hệ tài sản của người bị tuyên bố chết được giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Hủy quyết định tuyên bố chết và hậu quả pháp lý
Nếu người bị tuyên bố chết trở lại, theo Điều 73 Bộ luật Dân sự 2015, Tòa án có thẩm quyền hủy quyết định tuyên bố chết dựa trên yêu cầu của người đó hoặc người có quyền và lợi ích liên quan, hoặc căn cứ người bị tuyên bố chết trở về hoặc có tin tức xác thực người đó còn sống. Tòa án cũng ra quyết định về hậu quả pháp lý của việc hủy quyết định tuyên bố chết theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015.
Khi quyết định tuyên bố chết bị hủy bỏ, quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố chết có thể được khôi phục, trừ trường hợp vợ hoặc chồng đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật Dân sự 2015 hoặc đã kết hôn với người khác. Quan hệ tài sản cũng được giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và Luật hôn nhân và gia đình.
Quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố chết phải được gửi cho UBND cấp xã nơi người bị tuyên bố chết cư trú để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Ví dụ:
Ví dụ 1:
Ví dụ về trường hợp tuyên bố một người là đã chết sau 03 năm mất tích:
Nguyễn An, một người đi làm ở nước ngoài, mất tích từ năm 2018 và không có bất kỳ tin tức nào về anh ta trong suốt thời gian đó. Sau 03 năm, gia đình của Nguyễn An yêu cầu Tòa án tuyên bố anh ta đã chết. Sau khi xem xét và không tìm thấy bằng chứng cho thấy anh ta còn sống, Tòa án ra quyết định tuyên bố Nguyễn An là đã chết.
Ví dụ 2:
Ví dụ về hậu quả pháp lý khi tuyên bố một người là đã chết:
Sau khi Ngọc Anh bị tuyên bố là đã chết, quan hệ nhân thân của cô ấy bị giải quyết như đối với một người đã chết. Chồng của Ngọc Anh được phép tiếp tục quá trình ly hôn và có hiệu lực pháp lý, trong khi tài sản của cô ấy sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Ví dụ 3:
Ví dụ về hủy quyết định tuyên bố chết:
Sau khi một người bị tuyên bố là đã chết, thông tin mới cho thấy rằng người đó thực sự còn sống. Để khôi phục tình trạng pháp lý ban đầu, người đó có quyền yêu cầu Tòa án hủy quyết định tuyên bố chết. Sau khi xem xét các chứng cứ và yêu cầu hợp lệ, Tòa án có thẩm quyền hủy bỏ quyết định tuyên bố chết và khôi phục quan hệ nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật.