
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUÂN THỦ THUẾ
2.1. Tuân thủ thuế
2.1.1. Khái niệm
2.1.1.1. Khái niệm tuân thủ thuế
Tuân thủ thuế, theo cách hiểu đơn giản nhất, "là mức độ đối tượng chấp hành nghĩa vụ thuế được quy định trong luật thuế". Tuân thủ thuế của NNT thể hiện ở việc chấp hành đầy đủ, kịp thời và đúng đắn các quy định của pháp luật thuế, cụ thể là việc chấp hành các tiêu chí thời gian, mức độ chính xác trung thực và đầy đủ của các hoạt động đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế và các nghĩa vụ khác về thuế của NNT.
Tương tự như vậy, cơ quan thuế của Australia (ATO) định nghĩa "tuân thủ thuế là việc DN đáp ứng các nghĩa vụ thuế theo quy định của luật thuế và theo các quyết định của toà án".
Khái niệm về tuân thủ thuế cũng đã được rất nhiều học giả và nhà nghiên cứu đưa ra và bàn luận:
Theo Jackson & Milliron (1986b) - một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên đưa ra khái niệm về tuân thủ thuế, tuân thủ thuế là "hành vi khai chính xác, đúng thời hạn và toàn bộ số tiền thuế mà không cần sự ép buộc của cơ quan quản lý thuế".
Nhóm tác giả Roth và Scholz (1989) đã đưa ra khái niệm rõ hơn về tuân thủ thuế là "tuân thủ với các quy định báo cáo thuế nghĩa là người nộp thuế phải nộp tất cả các tờ khai thuế yêu cầu vào thời điểm thích hợp và các tờ khai thuế phải báo cáo chính xác nghĩa vụ thuế theo luật thuế, các quy định, và các quyết định của tòa án áp dụng vào thời điểm kê khai thuế".
Có thể nói, tuân thủ thuế tuy là một khái niệm khá phổ cập ngay từ khi thuế ra đời nhưng để đưa ra một định nghĩa chung về tuân thủ thuế lại không hề đơn giản. Theo (Andreoni và cộng sự, 1998), tuân thủ thuế là một khái niệm có tính lỏng vì có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau từ những quan điểm khác nhau. Hay Lamb và cộng sự (2004) cho rằng tuân thủ thuế là một chủ đề liên ngành đòi hỏi phải có một sự hiểu biết về chung về nhiều lĩnh vực như: pháp luật, kế toán, kinh tế, chính sách công cộng và khoa học chính trị. Khái niệm này tiếp tục được các nhà nghiên cứu tranh luận theo cách tiếp cận về tính chấp hành nghĩa vụ thuế tự nguyện hay không tự nguyện. Theo đó, Kirchler và Wahl (2010), sự tự nguyện tuân thủ bắt nguồn từ ý định của người nộp thuế còn tuân thủ thuế bắt buộc là kết quả của của các hoạt động ép buộc tuân thủ. Các học giả hầu hết cho rằng quyết định tuân thủ thuế dù là tự nguyện hay bắt buộc của người nộp thuế bị chi phối bởi hai yếu tố: một là sự tin tưởng lẫn nhau giữa người nộp thuế và cơ quan thuế, hai là vai trò của cơ quan thuế trong việc phát hiện sai phạm và xử lý/ trừng phạt những đối tượng sai phạm về thuế.
Tóm lại, có thể định nghĩa sự tuân thủ thuế của DN là hành vi chấp hành nghĩa vụ thuế theo đúng luật định một cách đầy đủ, tự nguyện và đúng thời gian.
2.1.1.2. Phân loại tuân thủ thuế
Các nhà nghiên cứu về chủ đề tuân thủ thuế của người nộp thuế đã đưa ra rất nhiều tiêu chí khác nhau để xem xét và đánh giá mức độ tuân thủ thuế, hay nói một cách đơn giản là phân chia tuân thủ thuế thành các nhóm khác nhau dựa trên một số căn cứ nhất định.
1- Căn cứ vào tính chất tuân thủ
Theo OECD, hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế chia thành hai nhóm:
-Tuân thủ hành chính: là việc người nộp thuế tuân thủ các quy định hành chính về đăng ký, kê khai, nộp thuế đúng hạn. Các quy định về tuân thủ hành chính thường được thể hiện rõ ràng trong các văn bản luật về thuế.
- Tuân thủ kỹ thuật: là việc người nộp thuế thực hiện tính toán và nộp thuế chính xác theo đúng quy định của pháp luật về thuế. Việc đánh giá tuân thủ kỹ thuật dựa trên hai yếu tố: các quy định về luật thuế cần được rõ ràng và dễ hiểu; có được dữ liệu thực tế liên quan đến hoạt động chịu thuế của người nộp thuế.
- Căn cứ vào nội dung tuân thủ
Dựa theo nội dung các nghĩa vụ thuế mà NNT phải tuân thủ thì tuân thủ thuế được phân loại thành: tuân thủ trong việc đăng ký thuế; tuân thủ trong việc kê khai thuế; tuân thủ trong việc nộp thuế; và tuân thủ trong việc báo cáo thuế. Cách phân loại này là cơ sở để so sánh, đánh giá và kết luận trên phương diện quy định cụ thể của pháp luật rằng NNT đã vi phạm nghĩa vụ về thuế như thế nào. Nếu NNT không thực hiện bất kỳ một trong các nghĩa vụ này thì có thể coi là không tuân thủ thuế. Đây là cơ sở để áp dụng các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật.
-Tuân thủ trong việc kê khai thuế là loại tuân thủ liên quan đến tỷ lệ người nộp thuế kê khai thuế. Khi tính toán tỷ lệ kê khai thuế, mẫu số luôn là số NNT đã đăng ký thuế nhưng trên thực tế, mẫu số này phải lớn hơn vì có một bộ phận người kinh doanh đã không thực hiện đăng ký với CQT.
-Tuân thủ trong việc nộp thuế là loại tuân thủ liên quan đến việc thanh toán số tiền thuế đúng hạn theo quy định của pháp luật. Để đo lường hành vi tuân thủ này (Akhand, 2012) đã tính toán phần trăm số thuế nộp đúng hạn với số thuế trên các báo cáo kê khai thuế.
-Tuân thủ trong việc báo cáo thuế là việc báo cáo các nghĩa vụ thuế, thu nhập hoặc chi phí của người nộp thuế một cách trung thực. Tuân thủ báo cáo thuế đo lường việc liệu thu nhập của người nộp thuế có bị giấu đi hay chi phí có bị làm tăng thêm hay các khoản chi không đúng với nội dung kinh tế phát sinh.
2- Căn cứ vào mức độ tuân thủ
NNT được đánh giá và phân loại theo một trong các mức độ tuân thủ pháp luật thuế như sau:
Mức 1: Tuân thủ cao
NNT được đánh giá có mức độ tuân thủ cao khi đáp ứng các điều kiện:
- Đang hoạt động và thực hiện đầy đủ, đúng hạn việc kê khai và chấp hành nộp các loại thuế phát sinh theo quy định; số thuế nộp phù hợp quy mô, lĩnh vực đầu tư kinh doanh của DN. Chấp hành tốt chế độ quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế trong thời gian 2 năm trở về trước tính đến ngày đánh giá.
- Tỷ trọng nộp các loại thuế liên quan đến sản xuất kinh doanh trên doanh số, đạt trên mức trung bình so với mức trung bình của các DN trong cùng lĩnh vực, ngành nghề.
- Trong thời gian 2 năm liên tục trở về trước tính đến ngày đánh giá không bị một trong các hình thức xử lý vi phạm sau: không bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế; không trốn thuế, gian lận thuế; không vi phạm về kế toán thống kê tài chính DN; không có vụ việc vi phạm bị khởi tố vụ án.
- Không nợ thuế, không chậm nộp các khoản phí, lệ phí.
Mức 2: Tuân thủ trung bình
NNT được đánh giá có mức độ tuân thủ trung bình khi không thuộc nhóm NNT tuân thủ cao và tuân thủ thấp.
Mức 3: Tuân thủ thấp
NNT được đánh giá có mức độ tuân thủ thấp nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Tính đến thời điểm đánh giá: chưa kê khai, nộp hồ sơ khai thuế và nộp thuế đầy đủ, đúng hạn ít nhất 1/3 số tờ khai trong vòng 12 tháng; có số lỗ lũy kế vượt quá 50% vốn chủ sở hữu DN; bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
-Trong thời gian 2 năm liên tục trở về trước tính đến ngày đánh giá: bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế 2 lần trở lên; bị xử phạt do trốn thuế, gian lận thuế; không chấp hành quyết định kiểm tra, thanh tra thuế; vi phạm pháp luật hình sự bị khởi tố, điều tra;
- Có hành vi sử dụng ấn chỉ thuế bất hợp pháp hoặc sử dụng bất hợp pháp ấn chỉ thuế.
Mức 4: Không tuân thủ
NNT được đánh giá không tuân thủ là những đối tượng NNT còn lại, không thuộc 3 nhóm mức độ trên.
Theo: Mạc Thị Hải Yến
Link luận án: Tại đây
