
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1. Lý luận về tranh chấp trong công ty cổ phần
2.1.1. Khái lược về công ty cổ phần
a. Công ty cổ phần
- Khái niệm, đặc điểm của công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến trong xã hội, có đủ các điều kiện cần có của một doanh nghiệp như: là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Vốn điều lệ của công ty chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông là tổ chức hoặc cá nhân sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành. Số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi cổ phần, đồng thời được tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác trừ trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng. Công ty có tư cách pháp nhân và được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn [41, tr.76]. CTCP có các đặc điểm bao gồm:
Thứ nhất, CTCP có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân cho phép công ty sở hữu tài sản độc lập, tách biệt với các cổ đông, có quyền sử dụng, định đoạt tài sản và tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của công ty. Cổ đông sau đã chuyển tài sản của mình thành tài sản của công ty bằng việc mua cổ phần hoặc chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho công ty (có thể là quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất hoặc bất kỳ loại tài sản hợp pháp khác theo quy định của pháp luật) sẽ trở thành đồng chủ sở hữu của công ty. Đổi lại, cổ đông có những quyền và nghĩa vụ với công ty tương ứng với số cổ phần họ sở hữu. Sự phân định về tài sản của công ty và cổ đông thông qua tư cách pháp nhân của công ty có ý nghĩa quan trọng bởi đây là sự giới hạn rủi ro tài chính của cổ đông trên số vốn đã đầu tư vào công ty. Cả công ty và chủ nợ của công ty không có quyền kiện đòi tài sản của cổ đông, trừ trường hợp cổ đông chưa thanh toán tiền góp vốn hoặc tiền mua cổ phiếu phát hành .
Thứ hai, chế độ trách nhiệm tài sản. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ của công ty trong phạm vi tài sản đã góp hoặc cam kết góp vào công ty. Trong khi đó, CTCP, với tư cách là một chủ thể độc lập chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba bằng tất cả những tài sản thuộc sở hữu của công ty. Tính chất trách nhiệm hữu hạn của cổ đông không chỉ thể hiện sự tách biệt về tài sản của công ty với tài sản thuộc sở hữu riêng của các chủ sở hữu, mà còn cho phép hình thành cơ chế bảo vệ tài sản thuộc sở hữu riêng của cổ đông. Chủ nợ của công ty không được và không thể yêu cầu cổ đông thực hiện các nghĩa vụ tài sản ngoài số tài sản đã góp hoặc cam kết góp vào công ty.
Thứ ba, CTCP luôn tồn tại mối quan hệ ủy quyền (quan hệ đại diện) giữa các chủ sở hữu với những người quản lý điều hành nhân danh công ty. Đặc điểm này thể hiện thông qua mối quan hệ về sở hữu đối với cổ phần của các cổ đông. Số lượng cổ đông thường lớn hoặc không hạn chế, cùng với phương thức huy động vốn góp tự do, mối quan hệ giữa chủ sở hữu công ty và công ty luôn được gắn liền với quan hệ ủy quyền giữa cổ đông với những người điều hành, quản trị công ty, thể hiện tập trung nhất ở quan hệ đại diện cho các cổ đông . Sau khi chuyển quyền sở hữu tài sản vào công ty, hầu hết cổ đông phó thác tài sản đã góp cùng với quyền được hưởng lợi ích từ hoạt động của công ty cho NQLCT. Đó có thể là người cùng tham gia góp vốn vào công ty hoặc người được các cổ đông thuê. Mối quan hệ ủy quyền giữa họ được xác lập thông qua các hợp đồng, bầu cử hoặc các hành vi cụ thể của các cổ đông. Có thể nói, mối quan hệ ủy quyền trong quản lý và điều hành công ty là thuộc tính của công ty cổ phần. Tính chất và mức độ ủy quyền giữa các chủ sở hữu với những người quản lý tùy thuộc vào đặc điểm mô hình tổ chức công ty cụ thể. Với xu hướng tha hóa của quyền lực và khả năng lạm dụng quyền lực trong quan hệ ủy quyền, vấn đề kiểm soát quyền lực trong mối quan hệ đại diện, ủy quyền giữa chủ sở hữu công ty và người quản lý điều hành trong CTCP luôn là vấn đề tiềm ẩn bất đồng, mâu thuẫn gắn liền với các quyền và nghĩa vụ của các bên.
Thứ tư, cổ phần được tự do chuyển nhượng. Cổ phần thực chất là phần quyền về tài sản của cổ đông. Tuy có ràng buộc và hạn chế nhất định, nhưng về cơ bản, quyền sở hữu cổ phần có thể tự do chuyển nhượng . Đặc điểm này cho phép CTCP tồn tại và hoạt động khi thay đổi về chủ sở hữu, đồng thời tạo điều kiện cho chủ sở hữu linh hoạt tham gia và rút khỏi công ty bằng cách chuyển nhượng cổ phần. Khả năng huy động vốn rộng rãi, nhanh chóng và tự do chuyển nhượng cổ phần đã góp phần hình thành thị trường vốn linh hoạt, sôi nổi. Tự do và hạn chế tự do chuyển nhượng cổ phần trong CTCP là tiền đề làm phát sinh nhiều mối quan hệ pháp lý đòi hỏi hệ thống pháp luật phải ghi nhận và dự liệu cơ chế vận hành, đảm bảo cho các giao dịch liên quan được xác lập và thực hiện. Các hệ thống pháp luật đều có quy định về quyền chuyển nhượng tự do cổ phần. Những hạn chế chuyển nhượng cổ phần chỉ xác định nhằm giúp công ty và cổ đông duy trì những thỏa thuận và cam kết đã xác lập nhằm đảm bảo cho sự tồn tại của công ty.
Các đặc điểm cơ bản nêu trên của CTCP tồn tại khách quan. Những đặc điểm này bổ sung cho nhau làm cho hình thức công ty trở nên hấp dẫn một cách độc đáo đối với việc tổ chức hoạt động sinh lợi. Mặt khác, những đặc điểm này cũng tạo ra mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền và nghĩa vụ, là khởi nguồn làm phát sinh những bất đồng, mâu thuẫn trong CTCP, làm phát sinh nhiều vấn đề pháp lý cần phải được quy định và giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
- Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần
Trên thế giới, cấu trúc quản trị nội bộ của các CTCP thường theo một trong hai mô hình sau đây: (i) mô hình hội đồng đơn – hay còn gọi là hội đồng một tầng (unitary board hay one-tier board model), và (ii) mô hình hội đồng kép – hay còn gọi là hội đồng hai tầng (dual board hay two-tier board model). Ở Việt Nam, mô hình tổ chức CTCP mang tính pha trộn của cả hai mô hình trên và doanh nghiệp được phép lựa chọn trên cơ sở quy định của pháp luật. Trong đó, CTCP sẽ bao gồm các cơ quan chính như sau: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát (có thể có hoặc không) và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
Đại hội đồng cổ đông: gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của công ty, phản ánh quyền lực của cổ đông với tư cách là chủ sở hữu công ty. ĐHĐCĐ làm việc theo chế độ tập thể biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản, chỉ tồn tại trong thời gian họp và thông qua các quyết định đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền.
ĐHĐCĐ có thẩm quyền thông qua định hướng phát triển của công ty, quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên HĐQT, Kiểm soát viên; Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị của công ty do ĐLCT hoặc pháp luật quy định; sửa đổi, bổ sung ĐLCT; Thông qua báo cáo tài chính hằng năm; quyết định mua lại cổ phần đã bán; Xem xét, xử lý vi phạm của thành viên HĐQT, Kiểm soát viên gây thiệt hại cho công ty và cổ đông công ty; Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty; Quyết định ngân sách hoặc tổng mức thù lao, thưởng và lợi ích khác cho HĐQT, BKS; Phê duyệt quy chế quản trị nội bộ; quy chế hoạt động HĐQT, BKS; Phê duyệt danh sách công ty kiểm toán độc lập; quyết định công ty kiểm toán độc lập thực hiện kiểm tra hoạt động của công ty, bãi miễn kiểm toán viên độc lập khi xét thấy cần thiết.
Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý công ty, có quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Chỉ trong cơ cấu tổ chức của CTCP mới có HĐQT. Trong CTCP thì ĐHĐCĐ là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, tiếp đến là HĐQT. HĐQT có không ít hơn 03 thành viên và không quá 11 thành viên. Nhiệm kỳ của HĐQT là 5 năm. Nhiệm kỳ của Thành viên HĐQT không quá 5 năm; thành viên HĐQT có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Trường hợp có thành viên được bầu bổ sung hoặc thay thể thành viên bị miễn nhiệm, bãi nhiệm trong thời hạn nhiệm kỳ, thì nhiệm kỳ của thành viên đó là thời hạn còn lại của nhiệm kỳ HĐQT. Thành viên HĐQT không nhất thiết phải là cổ đông của Công ty.
Với vai trò và vị trí quan trọng trong cơ cấu tổ chức của công ty, HĐQT có các quyền quyết định các vấn đề về hoạt động kinh doanh, vấn đề tài chính và tổ chức, quản lý công ty, có quyền kiến nghị các chính sách liên quan đến việc huy động vốn, tổ chức công ty và có quyền chuẩn bị các nội dung các cuộc họp ĐHĐCĐ. HĐQT thông qua quyết định bằng biểu quyết tại cuộc họp. Lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác do Điều lệ quy định. Mỗi thành viên HĐQT có một phiếu biểu quyết. Khi thực hiện chức năng, quyền và nghĩa vụ của mình, HĐQT tuân thủ đúng pháp luật, ĐLCT và nghị quyết của ĐHĐCĐ. Trong trường hợp quyết định, nghị quyết do HĐQT thông qua trái với quy định của pháp luật hoặc ĐLCT gây thiệt hại cho công ty thì các thành viên tán thành thông qua nghị quyết đó phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về nghị quyết đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối thông qua nghị quyết nói trên được miễn trừ trách nhiệm. Trường hợp này, cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 năm có quyền yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện nghị quyết nói trên.
Chủ tịch HĐQT do HĐQT bầu trong số các thành viên, có quyền và nghĩa vụ sau: (i) Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của HĐQT; (ii) Chuẩn
bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ cuộc họp, triệu tập và chủ tọa cuộc họp HĐQT; (iii) Tổ chức việc thông qua quyết định của HĐQT; (iv) Giám sát quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của HĐQT; (v) Chủ tọa họp ĐHĐCĐ; (vi) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của LDN và ĐLCT.
Tổng giám đốc, giám đốc: là chức danh quản lý điều hành hoạt động hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của HĐQT; chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ được giao. HĐQT có thể bổ nhiệm một thành viên HĐQT hoặc thuê người khác làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty. Nhiệm kỳ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không quá 05 năm và có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, ĐLCT, hợp đồng lao động ký với công ty và nghị quyết của ĐHĐCĐ, quyết định của HĐQT. Trường hợp điều hành trái với quy định tại khoản này mà gây thiệt hại cho công ty thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty.
Ban Kiểm soát: là cơ cấu bắt buộc trong bộ máy quản lý CTCP trong trường hợp công ty tổ chức theo mô hình: ĐHĐCĐ, HĐQT, Ban kiểm soát và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Nếu công ty có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có BKS. BKS có từ 03 đến 05 Kiểm soát viên. Kiểm soát viên do ĐHĐCĐ bầu trên cơ sở đề cử của các cổ đông, nhóm cổ đông có cổ phần chiếm từ 5% trở lên, có nhiệm kỳ không quá 05 năm và có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Trưởng BKS do BKS bầu theo nguyên tắc đa số trong số các Kiểm soát viên. Quyền và nghĩa vụ của Trưởng BKS do ĐLCT quy định. Nhiệm vụ chính của BKS là giám sát hoạt động của HĐQT và Giám đốc (Tổng giám đốc) trong việc quản lý, điều hành công ty, thẩm
định tính hợp pháp, trung thực của các báo cáo của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT. Ngoài ra, BKS có các nhiệm vụ khác tùy theo quy định của Điều lệ và Nghị quyết của ĐHĐCĐ.
b. Cổ đông
- Khái niệm cổ đông
Công ty cổ phần do các cổ đông cùng góp vốn tạo lập nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh nên hiểu đơn giản cổ đông là người mua cổ phần để hùn vốn vào CTCP [90, tr.101]. Cổ đông là cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty. Khái niệm cổ đông bao gồm các yếu tố như sau: là một thành viên của công ty, nắm giữ cổ phần của công ty theo hình thức cổ phiếu và được hưởng các quyền tương ứng với cổ phần mà họ nắm giữ . Họ có thể là người đã tham gia thành lập công ty và chuyển quyền sở hữu tài sản của mình thành tài sản của công ty để trở thành đồng chủ sở hữu công ty khi thành lập, người mua lại cổ phần của cổ đông khác, người được tặng, cho, nhận thừa kế cổ phần của cổ đông hoặc có thể là người được cổ đông (hoặc công ty) trả nợ bằng cổ phần.
- Phân loại cổ đông
Trong khoa học pháp lý, có nhiều cách để phân loại cổ đông và việc phân loại cũng chỉ mang tính tương đối. Dựa trên tỷ lệ sở hữu cổ phần và biểu hiện liên kết giữa các cổ đông, cổ đông có thể được phân loại thành cổ đông (nhóm cổ đông) đa số và cổ đông (nhóm cổ đông) thiểu số. Cổ đông đa số là những cổ đông nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trong công ty [50,tr.10-17]. Cổ đông thiểu số là những cổ đông không có quyền biểu quyết hoặc nắm giữ dưới 50% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trong công ty và không chi phối được hoạt động quản lý, điều hành của công ty. Dựa vào tính chất, mức độ tham gia kiểm soát và điều hành hoạt động của công ty, cổ đông được phân loại thành cổ đông thường và cổ đông quản lý. Cổ đông quản lý là những cổ đông trực tiếp tham gia vào bộ máy quản lý, điều hành hoạt động của công ty và giữ vai trò là NQLCT. Trên cơ sở lý thuyết về sở hữu, với tư cách là chủ sở hữu, bất kỳ cổ đông nào cũng có quyền tham gia và thực hiện quyền quản lý công ty, ít nhất là việc tham gia họp ĐHĐCĐ, thảo luận, biểu quyết quyết định những vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của công ty. Dựa trên loại cổ phần mà cổ đông sở hữu thì có thể phân loại cổ đông thành (i) cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông hay còn gọi là cổ đông phổ thông, (ii) cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức; (iii) cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại; (iv) cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết.
- Tư cách cổ đông. Xác định tư cách cổ đông là cơ sở để xác định các quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong mối quan hệ với công ty và với những cổ đông khác, là một trong những vấn đề pháp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tư cách cổ đông được xác lập tùy thuộc vào giai đoạn tổ chức công ty và phương thức hình thành tư cách cổ đông. Lấy thời điểm kết thúc thời hạn đăng ký mua cổ phần thành lập công ty làm tiêu chuẩn, có thể phân chia thời điểm xác định tư cách cổ đông theo hai giai đoạn như sau: giai đoạn thành lập công ty, được tính từ thời điểm kết thúc thời hạn cam kết mua cổ phần và giai đoạn hoạt động của công ty tính từ thời điểm kết thúc thời hạn đăng ký mua cổ phần đến thời điểm công ty chấm dứt hoạt động [54,tr.110]. Trong giai đoạn thành lập công ty, tư cách cổ đông được xác lập khi công ty được thành lập và khi cổ đông đó đã mua hoặc đăng ký mua cổ phần. Thời điểm xác lập tư cách cổ đông là thời điểm công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Từ thời điểm đến hết thời hạn đăng ký mua cổ phần (90 ngày hoặc ngắn hơn), tư cách cổ đông được xác lập mà không phụ thuộc vào việc cổ đông đã thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua cho công ty hay chưa. Trong giai đoạn hoạt động của công ty, việc xác lập tư cách cổ đông được xác định dựa trên những giao dịch, hành vi cụ thể của cổ đông và của công ty. Trường hợp cổ đông là người đã chuyển quyền sở hữu tài sản của mình thành tài sản của công ty để trở thành đồng chủ sở hữu công ty trong giai đoạn thành lập công ty, thời điểm giao nhận quyền sở hữu tài sản giữa các bên đồng thời là thời điểm xác nhận tư cách cổ đông. Tài liệu chứng minh là biên bản bàn giao hoặc tài liệu thể hiện việc giao nhận tài sản. Hiện tại, việc xác lập thời điểm giao nhận tài sản giữa cổ đông và công ty đang được xác định theo hai hình thức, chuyển giao thực tế và chuyển giao pháp lý. Trường hợp xác định tư cách cổ đông thông qua phương thức mua lại cổ phần, việc mua bán phần cổ phần là một giao dịch dân sự. Hợp đồng mua bán giữa người bán và người mua là thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ của các bên về đối tượng, giá cả và phương thức giao nhận. Trường hợp xác lập tư cách cổ đông thông qua tặng, cho, nhận thừa kế đối với cổ phần của cổ đông hoặc trả nợ bằng cổ phần, trên cơ sở tự nguyện và không trái với những giá trị văn hóa, đạo đực xã hội, trật tự công cộng, điều kiện trở thành cổ đông của những chủ thể trong các mối quan hệ dân sự nói trên phụ thuộc vào ý chí của các bên. Theo nguyên tắc về tự do khế ước đã được thừa nhận phổ biến trong xã hội và ghi nhận trọng hệ thống pháp luật, đối với CTCP, thời điểm xác định tư cách cổ đông của người được tặng, cho, được nhận thừa kế hoặc được trả nợ bằng cổ phần được xác định khi các quan hệ tặng, cho, thừa kế, trả nợ được xác lập và thực hiện bởi các bên. Theo đó, người thừa kế cổ phần theo di chúc hoặc theo pháp luật của cổ đông đương nhiên trở thành cổ đông. Người được tặng, cho, được trả nợ bằng cổ phần sẽ trở thành cổ đông. Tương tự như trong quan hệ mua bán cổ phần, thời điểm xác định tư cách cổ đông là thời điểm thông tin về những người này được ghi nhận trong sổ đăng ký cổ đông.
- Quyền và nghĩa vụ của cổ đông. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông ngày càng được ghi nhận theo hướng mở rộng các quyền tương ứng với nghĩa vụ cụ thể. Quyền của cổ đông là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất để bảo vệ cổ đông bởi vì nó là phương tiện duy nhất mà cổ đông có thể tự mình sử dụng . Khi Nhà nước khuyến khích kinh tế tư nhân thì tất yếu phải tạo ra khuôn pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích của họ tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp, chống lại sự xâm hại, cản trở hoặc vụ lợi từ các thực thể khác. Xuất phát từ bản chất của CTCP là sự thỏa thuận của các cổ đông, quyền và nghĩa vụ của cổ đông được xác lập dựa vào quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng, trên nguyên tắc của tự do ý chí. Các quyền và nghĩa vụ của cổ đông trước hết được xác định cụ thể bởi các thỏa thuận của cổ đông, thể hiện trong ĐLCT, văn bản có tính pháp lý quan trọng trong quá trình thành lập và hoạt động của công ty, trong các biên bản, nghị quyết của ĐHĐCĐ và trong các văn bản quy phạm pháp luật. Là chủ sở hữu đối với cổ phần trong công ty, cổ đông có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ cổ phần sở hữu, mà quyền cao nhất là quyền quyết định sự tồn tại và hoạt động của công ty, bao gồm: quyền sở hữu đối với cổ phần, quyền được hưởng lợi nhuận tương ứng với cổ phần, quyền tham gia và quyết định về tổ chức công ty, quản lý, điều hành công ty. Nghĩa vụ chuyển giao tài sản vào công ty, nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận đã cam kết với công ty, với các cổ đông khác trong công ty. Nghĩa vụ trung thực và cẩn trọng trong thực hiện các công việc có liên quan vì lợi ích của công ty, của các cổ đông khác trong công ty.
2.1.2. Khái niệm tranh chấp trong công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phổ biến, được hình thành trên cơ sở góp vốn của nhiều cổ đông dưới hình thức các cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức hoặc cá nhân nhưng đều là những chủ thể độc lập với công ty. Để tồn tại và phát triển, các cổ đông không chỉ tham gia góp vốn mà còn quản lý, điều hành công ty. Trong quá trình này, các tranh chấp do mâu thuẫn và xung đột lợi ích giữa cổ đông, công ty và NQLCT là điều tất yếu. Tranh chấp được hiểu là “việc giành nhau một cách giằng co, không rõ thuộc về bên nào”, “là những mâu thuẫn, bất hoà về quyền và nghĩa vụ hợp pháp giữa các chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật”.
Khoa học pháp lý hiện nay có nhiều quan niệm về tranh chấp trong CTCP. Chẳng hạn, có tác giả quan niệm: Tranh chấp nội bộ trong CTCP là những xung đột, bất đồng về quyền lợi hoặc các vấn đề về tổ chức, quản lý trong nội bộ công ty mà chủ thể của xung đột này là cổ đông hoặc với công ty hoặc với các cổ đông khác trong công ty. Hoặc có quan niệm tranh chấp pháp lý giữa các cổ đông trong CTCP là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền, lợi ích giữa các cổ đông với NQLCT trong quá trình thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động, tổ chức lại, giải thể, phá sản của CTCP. Có thể thấy, các quan niệm nói trên tiếp cận khái niệm tranh chấp trong CTCP theo bình diện về chủ thể và chưa chỉ ra được bản chất và đặc điểm cũng như chưa khái quát được tranh chấp trong CTCP.
Là chủ sở hữu của công ty, cổ đông là chủ thể quan trọng có vai trò quyết định sự hình thành, tồn tại, hoạt động và chấm dứt của công ty. Các quyền và nghĩa vụ của cổ đông được xác định xuất phát từ các quyền của chủ sở hữu được hình thành gắn liền với quá trình thành lập, duy trì và chấm dứt hoạt động của công ty.
Tranh chấp giữa cổ đông với nhau về cơ bản là bất đồng, mâu thuẫn trong thực hiện thỏa thuận giữa cổ đông về việc xác lập quyền sở hữu, lợi ích vật chất có được từ việc sở hữu cổ phần, về ứng xử của cổ đông liên quan đến tổ chức và quản lý, điều hành công ty. Bản chất và nội hàm của khái niệm tranh chấp giữa các cổ đông sẽ được làm rõ và xác định đúng đắn hơn thông qua những đặc điểm pháp lý của loại hình tranh chấp này.
Tranh chấp giữa cổ đông với công ty hoặc NQLCT có tính chất của tranh chấp giữa chủ sở hữu và đối tượng sở hữu. Cổ đông, với tư cách là chủ sở hữu công ty được bắt nguồn từ quyền sở hữu phần cổ phần trong công ty. Trong khi đó, công ty là một loại chủ thể đặc biệt, có các quyền và nghĩa vụ độc lập với chủ sở hữu công ty nhưng là đối tượng sở hữu trong mối quan hệ với cổ đông. Giữa cổ đông và công ty luôn tồn tại các mối liên hệ thông qua các quyền và nghĩa vụ được xác lập theo thỏa thuận giữa các cổ đông hoặc theo các quy định của pháp luật. NQLCT là người “thụ thác”, được cổ đông trao quyền thay mặt quản lý, điều hành công ty mà đáng lẽ những người đồng sở hữu công ty phải thực hiện. Ở Việt Nam, nhiều CTCP có tính chất gia đình, một hoặc một vài người trong một gia đình đang nắm giữ một tỷ lệ lớn cổ phần trong công ty. Đa số những cổ đông lớn này đồng thời là NQLCT nên có xu hướng lạm dụng quyền làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông khác, chẳng hạn: trục lợi cá nhân thông qua trả lương thưởng cao cho nhân sự quản lý và cộng sự, giao dịch với bên có liên quan, đưa ra các quyết định kinh doanh, và thay đổi cơ cấu vốn thông qua việc phát hành ưu đãi các cổ phiếu làm lợi cho cổ đông nắm quyền kiểm soát . Chính điều này là nguyên nhân tạo nên các nhóm cổ đông có lợi ích riêng, xung đột quyền lợi với các cổ đông khác.
Tranh chấp giữa cổ đông với công ty hoặc NQLCT xảy ra khi có sự bất đồng, mâu thuẫn liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được xác lập giữa các cổ đông, hoặc giữa cổ đông với công ty hoặc NQLCT. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông và công ty được xác lập trên cơ sở các quy định của luật pháp và thỏa thuận giữa các cổ đông. Điều kiện về tính hợp pháp của thỏa thuận giữa các cổ đông là phải thể hiện sự tự nguyện, tự do ý chí, không trái pháp luật, không xâm hại đến trật tư công cộng và những giá trị đạo đức xã hội.
Về bản chất tranh chấp giữa các cổ đông, giữa cổ đông với công ty hoặc NQLCT suy cho cùng là những bất đồng, mâu thuẫn về các lợi ích kinh tế, quyền quản lý công ty gắn liền với các quyền và nghĩa vụ của công ty và cổ đông trong hoạt động kinh doanh thương mại.
Về phạm vi, tranh chấp trong CTCP luôn xảy ra gắn liền với chủ thể là các cổ đông và xuất hiện trong quá trình tổ chức và hoạt động của công ty.
Một cách khái quát, khái niệm tranh chấp trong CTCP trong phạm vi nghiên cứu được định ngh a là tranh chấp giữa các cổ đông với nhau, giữa cổ đông với công ty hoặc với NQLCT về những mâu thu n, ung đột quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình hìh thành, tổ chức, hoạt động, giải thể hoặc phá sản của công ty.
2.1.3. Đặc điểm của tranh chấp trong công ty cổ phần
Trên cơ sở khái niệm đã nêu, tranh chấp trong CTCP có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Tranh chấp trong CTCP là loại hình tranh chấp mang tính “nội bộ”. Tính chất nội bộ được thể hiện thông qua chủ thể tranh chấp và nội dung tranh chấp.
Chủ thể của tranh chấp là các cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu cổ phần trong công ty hoặc có quyền quản lý công ty, có mối quan hệ gắn bó trách nhiệm và quyền lợi trong cùng một tổ chức. Cơ cấu tổ chức mang tính đối vốn và mối quan hệ ủy thác giữa cổ đông và NQLCT làm cho các nhóm chủ thể dễ nảy sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình công ty hình thành, hoạt động và chấm dứt. Đối với tranh chấp giữa cổ đông với NQLCT liên quan đến trách nhiệm dân sự do hành vi của những người này làm xâm hại đến lợi ích của công ty, điểm khác biệt về mặt chủ thể trong loại hình tranh chấp này là chỉ cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 01% số cổ phần phổ thông trở lên của công ty mới có quyền khởi kiện và trở thành chủ thể của tranh chấp [106, tr.36–42]. Đây cũng là dấu hiệu phân biệt tranh chấp trong CTCP với các loại hình tranh chấp kinh doanh thương mại khác thường phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh có tư cách độc lập với nhau, không có mối quan hệ phụ thuộc và gắn bó về quyền sở hữu và lợi ích công ty.
Nội dung tranh chấp phản ánh những giá trị vật chất hoặc phi vật chất, được xác định trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của công ty, NQLCT và của cổ đông, được quy định trong các văn bản luật, ĐLCT và các biên bản họp, nghị quyết của ĐHĐCĐ. Nội dung tranh chấp trong CTCP rất đa dạng và phong phú, luôn gắn liền với các quyền và nghĩa vụ đã hoặc có thể được xác lập của các chủ thể (thông qua thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật) và phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức, quản lý, hoạt động, tổ chức lại, giải thế, phá sản của CTCP. Đặc điểm này giúp tranh chấp trong CTCP phân biệt với các tranh chấp kinh doanh thương mại khác, vốn xuất phát từ những bất đồng, mâu thuẫn về các quyền và nghĩa vụ liên quan đến lợi ích vật chất được xác lập thông qua những giao dịch cụ thể của chủ thể kinh doanh trong việc thực hiện các hành vi thương mại, thể hiện qua việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng, thỏa thuận, giao ước trong kinh doanh thương mại đã giao kết.
- Tranh chấp trong CTCP ảnh hưởng đến các bên trong nội bộ công ty và các chủ thể liên quan đến hoạt động công ty. Là các mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình hình thành, tổ chức, hoạt động, giải thể hoặc phá sản của công ty, tranh chấp trong CTCP ít hoặc nhiều ảnh hưởng đến các chủ thể trong nội bộ công ty như các cổ đông/ nhóm cổ đông đa số hoặc thiểu số, các chủ thể nắm quyền quản lý công ty. Tranh chấp có thể phát sinh đơn lẻ từ những mâu thuẫn giữa các cổ đông trong việc chuyển nhượng cổ phần trong công ty đến các tranh chấp gay gắt hơn do việc cổ đông không chấp nhận Nghị quyết của ĐHĐCĐ vì cho rằng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ngoài các chủ thể trong nội bộ công ty, các tranh chấp còn có thể ảnh hưởng đến các cá nhân, tổ chức có quan hệ kinh doanh, thương mại, lao động, gia đình….giữa hai bên, giữa nhóm hoặc các nhóm, giữa các thành viên, cổ đông.
- Tranh chấp trong CTCP thường được các bên tự giải quyết nội bộ nhưng không đạt hiệu quả. Đây là đặc điểm tất yếu của tính chất nội bộ trong tranh chấp CTCP. Xuất phát từ việc các bên tranh chấp đều có mối quan hệ nhất định thông qua quá trình hình thành và hoạt động của công ty, các mâu thuẫn phát sinh trong công ty đều nhận được sự quan tâm từ các chủ thể trong công ty và được các bên thương lượng, hòa giải trước khi khởi kiện tại Tòa án. Bởi lẽ đó, các tranh chấp trong CTCP tại Tòa án mang tính gay gắt và các bên thường không có sự nhượng bộ, khó đạt được kết quả hòa giải như mong muốn.
- Tranh chấp trong CTCP chịu sự điều chỉnh bởi các quy chế nội bộ của công ty. Bản chất của CTCP là sự thỏa thuận của các chủ thể góp vốn để cùng thực hiện một hoạt động kinh doanh nhất định; nên ngoài các quy định pháp luật, hoạt động của CTCP được điều chỉnh bởi các văn bản, quy chế nội bộ công ty, Nghị quyết, quyết định và các biên bản của ĐHĐCĐ hoặc HĐQT; trong đó ĐLCT được xem là khế ước của những cổ đông sáng lập công ty, chi phối việc vận hành, quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thế trong công ty như: tỷ lệ dự họp tối thiểu để tiến hành họp ĐHĐCĐ; tỷ lệ để quyết định của của ĐHĐCĐ được thông qua; mô hình quản lý công ty; phương thức thông qua quyết định của ĐHĐCĐ; không cấm một người đã làm giám đốc (tổng giám đốc) công ty không được làm giám đốc (tổng giám đốc) công ty khác; về người đại diện theo pháp luật; hình thức dự họp; quy định về khởi kiện NQLCT; yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ. Do đó, khi giải quyết tranh chấp, các văn bản nội bộ của công ty được ưu tiên áp dụng nếu các văn bản này không trái với quy định của pháp luật. Điều này cũng tạo nên sự khác biệt giữa tranh chấp trong CTCP với các tranh chấp khác phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh xác lập và thực hiện các hành vi thương mại.
Theo: Nguyễn Hữu Hưng
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/1ZV5qhVpXSpmoBguYCsZHv0FJMTX2QkKr/edit?rtpof=true
