
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XÃ HỘI HÓA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về xã hội hoá hoạt động thi hành án dân sự
3.1.1.1. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về xã hội hoá hoạt động thông báo, cấp, tống đạt văn bản thi hành án dân sự
Pháp luật quy định thỏa thuận tống đạt giữa văn phòng TPL và cơ quan THADS hoặc tòa án dưới hình thức hợp đồng, nghĩa là các bên tự do về ý chí và hành động trong quá trình tham gia ký kết. Tuy nhiên, trên thực tế, các hợp đồng này mang tính chất hành chính - mệnh lệnh là chủ yếu. Nếu có yêu cầu tống đạt, TPL phải thực hiện công việc này mà không có quyền từ chối. Trong khi đó, quy định về chi phí tống đạt nếu do ngân sách Nhà nước chi trả cho TPL dao động trong khoảng 65-130 nghìn đồng/việc không phải là cao. Trong khi đó, công việc này tuy đơn giản về thủ tục nhưng lại tốn nhiều thời gian, công sức. Địa chỉ ghi trong các giấy tờ thông báo không phải lúc nào cũng cụ thể, khoảng cách địa lý xa xôi, chưa kể là sự thay đổi nơi ở của đương sự khiến việc xác định thêm khó khăn... Do đó, mức biểu phí như vậy thực sự là một khó khăn đối với các TPL trong khi họ phải tự mình lo liệu mọi chi phí liên quan, thậm chí phải tự “bù lỗ” cho một số chi phí phát sinh cần thiết khác. Các văn phòng mang tính độc lập, tự chủ về tài chính và hoạt động theo hình thức dịch vụ nên lợi nhuận cần phải được quan tâm. Thậm chí, công việc này còn đem lại thu nhập chính để duy trì hoạt động của văn phòng TPL, cho nên thiết nghĩ cần phải có sự điều chỉnh mức phí phù hợp theo tính chất và quy luật thị trường.
Hơn nữa, việc quy định các cách thức tống đạt thông qua các quy định dẫn chiếu tại Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật THADS xuất hiện nhiều bất cập. Mặc dù các TPL sau khi được ủy quyền đều tiến hành trực tiếp tống đạt văn bản, giấy tờ cho đương sự nhưng thiết nghĩ cần phải quy định rõ ràng TPL chỉ được tống đạt bằng con đường trực tiếp. Trên thực tế đội ngũ này được đào tạo chuyên nghiệp và hoạt động theo cơ chế độc lập, đảm bảo tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Để làm được điều này, cần xác định rõ các loại giấy tờ cần thiết và có tính chất quan trọng cần phải tống đạt trực tiếp, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí. Trong tương lai, công việc tống đạt nên chuyển cho TPL thực hiện hoàn toàn.
Ngoài ra, cần có quy định mở về chủ thể có quyền yêu cầu TPL tống đạt. Thực tế, có trường hợp người dân biết bị đơn ở đâu, muốn tự nguyện yêu cầu TPL tống đạt nhưng không được phép vì quy định phải do tòa án hoặc cơ quan thi hành án yêu cầu. Do đó, nếu quy định chủ thể có quyền yêu cầu bao gồm cả đương sự sẽ góp phần đẩy mạnh công tác XHH hoạt động này, đảm bảo nguyên tắc tự bảo vệ quyền lợi của người có yêu cầu.
3.1.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền thi hành án của thừa phát lại trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án dân sự
Một là, về thẩm quyền ra quyết định THADS
Với những phân tích tại Chương 2 về hạn chế của quy định TPL không được chủ động ra quyết định thi hành án mà phải thông qua Thủ trưởng cơ quan thi hành án, NCS cho rằng việc quy định thẩm quyền nên giao lại cho trưởng Văn phòng TPL. Bởi trước hết Văn phòng TPL là chủ thể tiếp nhận và kí hợp đồng về việc tổ chức thi hành án với người yêu cầu và chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng, nên Trưởng Văn phòng là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cũng sẽ đại diện cho văn phòng trong thực hiện hợp đồng với người yêu cầu.
Mặt khác, cần giữ lại quy định văn phòng TPL phải gửi quyết định thi hành án cho Viện kiểm sát nhân dân và cho cơ quan Thi hành án cùng cấp với Tòa án đã ban hành bản án được thi hành để bảo đảm công tác kiểm sát thi hành án đúng pháp luật, bảo đảm thống nhất quản lý chế độ thông tin báo cáo, thống kê về kết quả thi hành án tới đầu mối quản lý là Tổng Cục Thi hành án Bộ Tư pháp cũng như bảo đảm việc theo dõi, phối hợp kịp thời của cơ quan Thi hành án khi văn phòng TPL có yêu cầu. Việc quy định trách nhiệm gửi quyết định thi hành án của văn phòng TPL không tạo ra sự phụ thuộc của TPL vào cơ quan thi hành án trong quá trình thực hiện công việc mà còn tạo cơ sở, mối liên kết để cơ quan thi hành án hỗ trợ TPL khi cần thiết.
Như vậy, quy định về quyết định thi hành án của TPL hiện nay (Điều 55 Nghị định 08/2020/NĐ-CP) theo NCS cần sửa đổi, bổ sung thành:
“Điều …: Quyết định thi hành án.
1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ký hợp đồng dịch vụ, Trưởng Văn phòng TPL ra quyết định thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2. Quyết định thi hành án bao gồm các nội dung:
a) Tên, địa chỉ Văn phòng TPL;
b) Ngày, tháng, năm ra văn bản;
c) Nội dung yêu cầu người phải thi hành án thi hành;
d) Thời hạn để người phải thi hành án tự nguyện thi hành.
3. Văn phòng TPL phải vào sổ theo dõi quyết định thi hành án được lập theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định.
4. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Văn phòng TPL phải gửi quyết định thi hành án đó cho người được thi hành án, người phải thi hành án, Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quant hi hành án cùng cấp với Tòa án có bản án nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở.”
Hai là, thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án
Quy định TPL có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án, bao gồm cả việc yêu cầu hỗ trợ, huy động lực lượng của cơ quan công quyền trong cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 71 và Điều 72 Luật THADS. Có thể thấy, một khó khăn hiện rất lớn hiện nay của TPL khi tổ chức thi hành án chính là việc không được áp dụng các biện pháp cưỡng chế cũng như huy động lực lượng trong quá trình tổ chức THADS. Chính vì lẽ đó, việc trao cho TPL thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án và biện pháp cưỡng chế là điều kiện quan trọng để TPL có thể hoàn thành công việc thi hành án của mình một cách liền mạch, hiệu quả, từ đó, mục đích của việc thi hành án mới có thể đạt được.
Theo: Nguyễn Thị Tuyền
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/1o8ol9cRXHH06CrKDNCNrzIavPSRrtbvF/edit?rtpof=true
