
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN
2.1. Nội dung và kỹ thuật quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
2.1.1. Nội dung liên quan đến quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Bản chất của việc quy định TNHS của pháp nhân là xác định nội dung quy định TNHS của pháp nhân. Theo NCS, nội dung cần thiết phải được xây dựng khi quy định TNHS của pháp nhân là: (1) Cơ sở TNHS của pháp nhân; (2) Điều kiện phải chịu TNHS của pháp nhân; (3) Phạm vi pháp nhân và phạm vi các tội pháp nhân phải chịu TNHS; (4) Các chế tài đối với pháp nhân; (5) Về trách nhiệm của cá nhân trong việc trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và áp dụng vào thực tiễn ở Việt Nam, NCS xây dựng nội dung liên quan đến quy định trách nhiệm hình sự pháp nhân như sau:
Thứ nhất, về cơ sở trách nhiệm hình sự của pháp nhân.
Để truy cứu TNHS đối với cá nhân nào đó, cơ quan THTT phải chứng minh được cá nhân đó phạm vào một tội cụ thể được BLHS quy định và hành vi nguy hiểm cho xã hội do cá nhân thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm đó. Điều này phù hợp với Điều 11 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc: “Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành”.
Ở Việt Nam, về vấn đề pháp nhân phạm tội và TNHS của pháp nhân cũng có quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng thực chất TNHS của pháp nhân là việc pháp nhân phải chịu TNHS đối với tội phạm do cá nhân thực hiện trong mối liên hệ có tính ràng buộc với pháp nhân, và như thế pháp nhân chỉ là một chủ thể phải chịu TNHS chứ pháp nhân không phải là chủ thể của tội phạm. Do đó, cơ sở chịu TNHS của pháp nhân là sự “áp đặt” TNHS lên pháp nhân từ hành vi phạm tội của thể nhân. Quan điểm này cho rằng, pháp nhân không phải là chủ thể của tội phạm.
Với quan điểm xuyên suốt các vấn đề lý luận đã trình bày, NCS quan niệm rằng pháp nhân hoàn toàn có thể là chủ thể tội phạm, thực hiện được tội phạm và có thể phải chịu TNHS đối với tội phạm mà pháp nhân đã thực hiện. Việc xác định pháp nhân là chủ thể tội phạm và phải chịu TNHS không trái quan điểm truyền thống của khoa học luật hình sự về tội phạm và TNHS, bởi vì: (1) Tổ chức, pháp nhân chịu TNHS thông qua hành vi của thể nhân ở dạng đại diện, được ủy quyền (thuyết trách nhiệm thay thế, thuyết văn hóa pháp nhân…) hoặc ở dạng đồng nhất, coi hành vi lãnh đạo, chỉ huy, điều hành của cá nhân có thẩm quyền chính là hành vi của tổ chức, pháp nhân; (2) Không phải mọi trường hợp người phải chịu TNHS phải trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội (người thực hành). Cần phải hiểu thuật ngữ thực hiện hành vi phạm tội theo nghĩa rộng, bao gồm cả hành vi thực hành và các hành vi liên quan đến tội phạm được thực hiện đó theo luật định. Hay nói cách khác, các chủ thể phải thoả mãn các điều kiện luật định đối với tội phạm mà chủ thể đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ, trong trường hợp đồng phạm thì chỉ người thực hành mới là người trực tiếp thực hiện hành vi được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm còn những người khác như tổ chức, xúi giục, giúp sức vẫn phải chịu TNHS. Đối với TNHS pháp nhân cũng có thể được hiểu như là một dạng đồng phạm đặc biệt đó; (3) Pháp nhân chỉ phải chịu TNHS trong trường hợp cá nhân thành viên pháp nhân thực hiện hành vi trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, ủy quyền được giao [7, tr.40].
Từ việc xác định như trên, theo NCS, cơ sở chịu TNHS của pháp nhân cũng tương tự như cơ sở chịu TNHS của cá nhân/thể nhân, đó là khi pháp nhân thực hiện một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS.
Từ những phân tích trên, theo NCS, cơ sở chịu TNHS của pháp nhân phải được quy định theo hướng: Pháp nhân chỉ phải chịu TNHS khi phạm vào một tội được BLHS quy định. Nói cách khác, PNTM được xác định là phạm tội và phải chịu TNHS khi cơ quan THTT chứng minh được pháp nhân đó phạm vào một tội cụ thể được BLHS, tức hành vi nguy hiểm cho xã hội của pháp nhân phải đủ yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể mà BLHS quy định.
Thứ hai, về điều kiện phải chịu TNHS của pháp nhân.
Từ việc xác định cơ sở chịu TNHS của pháp nhân như trên, đồng thời tham khảo bài viết “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân – Bản chất, nội dung và kỹ thuật quy định” của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa trong cuốn “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại – Nhận thức cần thống nhất?, NCS đồng tình với quan điểm của tác giả nêu ra ba trường hợp mà pháp nhân có thể phải chịu TNHS. Cụ thể là:
Trường hợp thứ nhất, pháp nhân có thể phải chịu TNHS về tội phạm mà tội phạm đó là hành vi cố ý không thực hiện nghĩa vụ được quy định trực tiếp cho pháp nhân như nghĩa vụ đóng thuế nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động... Trong trường hợp này hành vi phạm tội của pháp nhân gắn liền với lợi ích của pháp nhân và hành vi này chỉ có thể được thực hiện bởi người có trọng trách nhất định của pháp nhân [34, tr.24].
Trường hợp thứ hai, pháp nhân có thể phải chịu TNHS về tội phạm mà tội phạm đó được cá nhân nhân danh pháp nhân thực hiện và vì lợi ích của pháp nhân. Ví dụ: Lãnh đạo doanh nghiệp đưa hối lộ cho quan chức để được giải quyết công việc của doanh nghiệp.
Về lý thuyết, trường hợp thứ nhất và trường hợp thứ hai là hai trường hợp khác nhau. Tuy nhiên, cũng có thể coi trường hợp thứ nhất là dạng đặc biệt của trường hợp thứ hai vì trường hợp thứ nhất cũng có tính chất “nhân danh pháp nhân” và “vì lợi ích của pháp nhân” [34, tr.25-26].
Trường hợp thứ ba, pháp nhân có thể phải chịu TNHS trong trường hợp thành viên của pháp nhân đã phạm tội khi thực hiện công việc được pháp nhân giao và việc xảy ra tội phạm này có phần lỗi (chỉ đạo, điều hành hoặc cho phép) của pháp nhân. Ví dụ: Công nhân A được xí nghiệp giao sửa chữa nhà cho khách hàng. Trong khi hàn, công nhân A đã gây hỏa hoạn dẫn đến chết người, hủy hoại tài sản của người khác vì đã không tuân thủ đúng quy định về phòng cháy [34, tr.27].
Các trường hợp mà pháp nhân có thể phải chịu TNHS được nêu ra như trên hoàn toàn phù hợp với cơ sở lý luận mà NCS đã đề cập tại mục 2.2.1 để luận giải cho việc quy định TNHS của pháp nhân. Theo đó, dựa trên cơ sở lý luận đã phân tích, NCS đã khẳng định, pháp nhân hoàn toàn có thể thực hiện được tội phạm và có thể phải chịu TNHS.
Đối với ba trường hợp nêu trên, phân tích từng trường hợp sẽ thấy rõ hơn những điều kiện cụ thể để xác định việc pháp nhân phạm tội và phải chịu TNHS đối với tội phạm được thực hiện. Cụ thể như sau:
Với trường hợp thứ nhất và thứ hai:
- Gắn với trường hợp thứ nhất, pháp nhân được pháp luật quy định phải thực hiện nghĩa vụ nào đó (đóng thuế, đóng bảo hiểm xã hội…). Để thực hiện nghĩa vụ này thì lãnh đạo của pháp nhân phải thực hiện hoặc lãnh đạo, ban lãnh đạo của pháp nhân phải bàn bạc, chỉ đạo, điều hành và giao nhiệm vụ cho nhân viên của pháp nhân thực hiện.
Căn cứ vào cơ sở lý luận đã trình bày thì trong trường hợp này đã có hành vi “nhân danh pháp nhân” thực hiện tội phạm nhằm “mang lại lợi ích cho pháp nhân”. Và như vậy, hành vi, lỗi của cá nhân được đồng nhất với hành vi, lỗi của pháp nhân. Và do đó, pháp nhân phạm tội và phải chịu TNHS với tội phạm đã thực hiện.
- Gắn với trường hợp thứ hai, ở đây đã nêu rõ hành vi phạm tội được thực hiện “nhân danh pháp nhân” và “vì lợi ích của pháp nhân”. Để nhân danh pháp nhân thì cá nhân đó phải là người lãnh đạo của pháp nhân hoặc người đó được lãnh đạo, ban lãnh đạo của pháp nhân giao, phân công, ủy quyền và được sự chỉ đạo, điều hành của pháp nhân (lãnh đạo, ban lãnh đạo của pháp nhân) về việc thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, cũng có thể xảy ra trường hợp pháp nhân (lãnh đạo, ban lãnh đạo của pháp nhân) ban đầu không chỉ đạo, điều hành việc cá nhân có quyền “nhân danh pháp nhân” thực hiện tội phạm, tuy nhiên cá đó vẫn thực hiện tội phạm vì lợi ích của pháp nhân, pháp nhân (lãnh đạo, ban lãnh đạo của pháp nhân) biết nhưng không ngăn cản mà lại chấp thuận việc phạm tội đó.
Trong các trường hợp phân tích đều cho thấy đã có hành vi phạm tội của cá nhân “nhân danh pháp nhân” và “vì lợi ích của pháp nhân”, hành vi phạm tội lại được sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân. Và do đó, hành vi, lỗi của cá nhân trong trường hợp này được đồng nhất với hành vi, lỗi của pháp nhân. Vì thế, pháp nhân phạm tội và phải chịu TNHS với tội phạm đã thực hiện.
Với trường hợp thứ ba: Tội phạm xảy ra trong khi người trực tiếp phạm tội (là người của pháp nhân) thực hiện công việc của pháp nhân, và việc tội phạm xảy ra có nguyên nhân từ phía pháp nhân. Pháp nhân đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm phòng ngừa hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra từ công việc của các thành viên với ý nghĩa là công việc được giao và là bộ phận hợp thành hoạt động chung của pháp nhân. Do vậy, việc truy cứu TNHS pháp nhân trong trường hợp này là có cơ sở và cần thiết để răn đe pháp nhân, buộc pháp nhân phải có biện pháp phòng ngừa sự tái diễn tội phạm tương tự trong tương lai. Việc quy định TNHS của pháp nhân trong trường hợp này là theo thuyết văn hóa pháp nhân - Hành vi phạm tội gây thiệt hại của cá nhân được quy cho pháp nhân cùng phải chịu khi pháp nhân có lỗi đối với việc tội phạm xảy ra .
Trong ba trường hợp có thể quy định TNHS của pháp nhân gắn với các điều kiện cụ thể được nêu trên đây, trường hợp thứ nhất là trường hợp rõ và dễ được chấp nhận nhất, tiếp đó là trường hợp thứ hai. Trường hợp thứ ba là trường hợp mở rộng TNHS và cũng khó được chấp nhận nhất. Theo đó, trong thực tiễn lập pháp, nhiều quốc gia xác nhận TNHS của pháp nhân thuộc trường hợp thứ nhất và thứ hai.
Từ những phân tích trên và gắn với điều kiện, tư duy lập pháp ở Việt Nam, NCS cho rằng khi đưa quy định về TNHS của pháp nhân vào trong BLHS thì trước mắt đưa hai trường hợp thứ nhất và thứ hai là hợp lý. Và như vậy, gắn với hai trường hợp này thì điều kiện để chịu xác định pháp nhân phạm tội và pháp nhân chịu TNHS phải được quy định bảo đảm các điều kiện sau:
(1) Hành vi phạm tội của pháp nhân được thực hiện thông qua hành vi của cá nhân; (2) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân; (3) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân; (4) Hành vi phạm tội được thực hiện với sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân.
Thứ ba, về phạm vi pháp nhân và phạm vi các tội mà pháp nhân phải chịu TNHS.
Khi quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm, chủ thể của TNHS, các nước cũng có quy định khác nhau về điều kiện chủ thể. Việc quy định phạm vi loại hình pháp nhân là chủ thể của tội phạm thường dựa vào tính chất, mục đích hoạt động của pháp nhân, thực trạng tình hình vi phạm pháp luật, hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật gây ra cho lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân, tính khả thi của việc áp dụng các chế tài của TNHS cũng như các điều kiện khác về phát triển kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu pháp luật của một số nước thấy rằng, có nước quy định phạm vi chủ thể TNHS rất rộng như: Luật hình sự Pháp quy định tất cả các pháp nhân, trừ Nhà nước và một số trường hợp ngoại lệ, đều phải chịu TNHS; luật hình sự Trung quốc quy định chủ thể phải chịu TNHS là cơ quan, tổ chức, đơn vị…; có nước lại quy định phạm vi chủ thể TNHS rất hẹp như: Luật hình sự Singapore coi pháp nhân kinh tế là chủ thể duy nhất phải chịu TNHS…
Theo: Vũ Văn Tư
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/17ogS1V_Ww37SE1jW4uscSpa5ApE4sWFy/edit
