
QUY CHẾ PHÁP LÝ KHU CNC Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
4.1. CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ SỰ RA ĐỜI CÁC KHU CNC Ở VIỆT NAM
Khi kỹ thuật và công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng và được ứng dụng nhiều trong gia tăng mức tăng trưởng tại nhiều nền kinh tế, thậm chí là đã trở thành xu thế và hướng đi phổ biến toàn cầu, thì Việt Nam cũng bắt đầu rục rịch nhận thức và chuyển hướng chính sách. Văn kiện ĐH Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, văn kiện đầu tiên của kỳ Đổi mới, đã khẳng định về vai trò của khoa học kỹ thuật như sau:
“Khoa học, kỹ thuật là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hôi. Trong những năm tới, phải vận dụng khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật trong nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, trong việc xác định chủ trương, chính sách, trong tổ chức quản lý kinh tế và xã hội” [338].
Sự quan tâm nêu trên, sau đó, đã góp phần không nhỏ vào sự thành công chung của công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, đặc biệt là đối với ba chương trình mục tiêu lớn lúc bấy giờ là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, như kỳ vọng của Đảng và nhà nước. Từ những thành quả này, Hội nghị TW Đảng lần thứ 7 (Khóa VI) và đặc biệt là ĐH Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định lựa chọn dứt khoát trong phát triển kinh tế gắn với khoa học và công nghệ. Từ đây, chủ trương và chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam sẽ được thực hiện bằng cách “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển nền nông nghiệp toàn diện” [339].
Thực ra, một khẳng định có tính bước ngoặt trong hoạch định chính sách phát triển ở Việt Nam là Đảng và nhà nước đã đủ bình tâm để khẳng định đây chỉ là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Và công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế bắt nguồn từ sự định vị đó để “từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” [340]. Bên cạnh đó, chính nhu cầu của thời kỳ quá độ đó cũng buộc chúng ta phải đánh giá và định vị lại thành phần cũng như tầm quan trọng của từng loại “cơ sở vật chất – kỹ thuật”. Kết quả, không những tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của khoa học – kỹ thuật mà Việt Nam còn bắt đầu quan tâm đến quy trình, công nghệ lẫn nhu cầu nhận chuyển giao công nghệ từ các nền khoa học tiên tiến và kinh tế phát triển. Từ chính sách “khoa học kỹ thuật” của ĐH Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam đã hình thành nên chính sách “khoa học và công nghệ” tại ĐH Đảng toàn quốc lần thứ VII và mãi tận những năm sau này [341]. Đây thực sự là chính sách có sự chuyển hướng nhất định sang “phát triển công nghệ, kết hợp đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập khẩu công nghệ để kết hợp với công nghệ nội sinh, nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của các ngành có lợi thế cạnh tranh, có tỷ trọng lớn trong GDP, các ngành công nghiệp bổ trợ và tạo việc làm cho xã hội, phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới” [342]. Rõ ràng, khẳng định “khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội” đã dần dần không còn xa lạ và trở thành kim chỉ nam cho chặng đường phát triển tiếp theo của Việt Nam cho đến tận bây giờ, khi Việt Nam tiếp tục cùng với thế giới bước vào nền kinh tế tri thức cạnh tranh khốc liệt. Và một lần nữa, tư tưởng và giá trị của kinh tế tri thức nhanh chóng được Việt Nam lĩnh hội, cụ thể là đã được thảo luận nhiều nhất và sau đó được ghi nhận tại Văn kiện của ĐH Đảng toàn quốc lần thứ IX: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa” . Thực ra, khoa học và công nghệ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học. Vì vậy, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ cũng có nghĩa là từng bước tạo tiền đề cho kinh tế tri thức . Điều này cho thấy, cùng với khoa học và công nghệ, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, quý giá nhất và là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đặc biệt là công nghệ thông tin – tài nguyên quan trọng bậc nhất của nền kinh tế. Điều này lý giải vì sao Văn kiện ĐH Đảng toàn quốc lần thứ X đã tiếp tục ghi nhận con đường lựa chọn công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức cho mục tiêu “thoát khỏi tình trạng kém phát triển”, trở thành “nước công nghiệp theo hướng hiện đại” trong chặng đường phát triển tiếp theo đến năm 2020. Muốn vậy, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế cần phải biến đổi và thực tế đã biến đổi nhanh chóng. Trong đó, các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số .
Từ phân tích nêu trên, cho thấy, nắm bắt cơ hội và tạo dựng một nền khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao hay các sản phẩm công nghệ có hàm lượng tri thức lớn trở thành nhu cầu và nhiệm vụ mật thiết trong phát triển kinh tế ở Việt Nam. Điều này, vì vậy, được xác định thành phương hướng phát triển của đất nước: “Nắm bắt các công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, những công nghệ mới trong chế tạo máy” [345]. Và quan trọng hơn, ý tưởng về việc xây dựng các khu phát triển công nghệ chuyên biệt đã xuất hiện và cuối cùng được tuyên bố chính thức ngay tại Văn kiện ĐH Đảng toàn quốc lần thứ VII: “Xây dựng các Khu CNC tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, là nơi hội tụ các cơ quan khoa học và các doanh nghiệp trong và ngoài nước, nhằm tạo ra các công nghệ cao và các ngành công nghệ.” Nhưng có lẽ, ý tưởng và lựa chọn này đã trở thành tâm điểm tranh cãi quyết liệt hơn từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cho đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, bởi lẽ, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa các nguồn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ...Tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức khoa học, doanh nghiệp và cá nhân được hoạt động khoa học theo luật định, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ và quyền tác giả. Có cơ chế thúc đẩy doanh nghiệp tăng đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và đặt hàng cho các cơ quan nghiên cứu” [346].Trong khi, cho đến thời điểm lúc bấy giờ các Khu CNC trên thực tế vẫn đang… còn xây dựng, chưa có sự đóng góp thực sự vào cơ cấu GDP lẫn quá trình phát triển kinh tế địa phương, vùng và cả nước. Tất cả những giá trị cốt lõi và sự hữu ích của các thực thể này đều tiếp tục được chứng minh bằng lý thuyết về vai trò của công nghệ và tri thức. Thậm chí, sự lo ngại về mức độ thành công của các Khu CNC tiếp tục lan xa hơn khi mà Việt Nam khá thành công trong các mục tiêu phát triển kinh tế hướng đến xuất khẩu. Đương nhiên, đó là kết quả của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dựa vào lợi thế cạnh tranh sẵn có với hai thế mạnh chủ lực: nhân công rẻ và kỹ năng gia công sản phẩm. Tiếp tục tập trung phát triển ngành may mặc, da giày… thường được viện dẫn như một sự thành công của lợi thế so sánh trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Nhưng rõ ràng, kết quả hoạt động cũng như đóng góp của các Khu CNC vào tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây, sau giai đoạn đầu tư cơ sở hạ tầng cơ bản, đã minh chứng rõ cho tính đúng đắn trong lựa chọn quyết liệt của Việt Nam để phát triển khoa học công nghệ và các ngành gắn với khoa học công nghệ cho giai đoạn hội nhập kinh tế sâu.
4.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÁC KHU CNC TẠI VIỆT NAM
4.2.1. Khu CNC cấp quốc gia
Kết quả của tiến trình tiếp cận chính sách về phát triển khoa học và công nghệ, Hòa Lạc (Hà Nội) là nơi đầu tiên được lựa chọn để xây dựng Khu CNC ở Việt Nam vào năm 1998. Cùng với sự quy định rõ nét hơn về chủ trương và chính sách phát triển khoa học và công nghệ, mô hình tồn tại của Khu CNC ở Việt Nam cũng trở nên phát triển và đa dạng hơn với cả ba hình thức: (i) Khu CNC, (ii) Khu CNTT tập trung, và (iii) Khu công nghệ sinh học và nông nghiệp ứng dụng CNC. Trong đó, mô hình thứ nhất được xem là mô hình truyền thống và nòng cốt so với các mô hình thứ hai và thứ ba mới được ghi nhận và phát triển thêm sau này.
Theo Quyết định 198/1998/QĐ-TTg ngày 12/10/1998 Khu CNC Hòa Lạc tồn tại và hoạt động theo mô hình thứ nhất. Vào thời điểm quy hoạch, Khu được xác định sẽ tọa lạc trên vùng đất rộng hơn 1.500 hecta, thuộc huyện Thạch Thất và Quốc Oai (Hà Nội). Sau hai lần điều chỉnh thiết kế, vào năm 2008 và 2016, quy mô không gian này vẫn được bảo toàn với 8 khu vực chức năng đã được định hình: Khu nghiên cứu và triển khai; Khu giáo dục và đào tạo; Khu công nghiệp CNC; Khu hỗn hợp; Khu trung tâm; Khu giải trí và TDTT; Khu phần mềm, và Khu nhà ở. Về cơ bản, hạ tầng đầu tư cho các hoạt động của Khu cũng đã hoàn tất .
Tiếp theo đó, Khu CNC quốc gia thứ hai được thành lập ở TP.HCM trên diện tích 872 hecta theo Quyết định số 145/2002/QĐ-TTg ngày 24/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Và một năm sau đó, năm 2003, quy hoạch tổng thể Khu CNC TP.HCM chính thức được Thủ tướng Chính phủ thông qua với quy mô 913 ha . Có thể nói, đây là minh chứng tiêu biểu cho sự nhận thức và đánh giá cao tầm quan trọng của nền kinh tế tri thức và phát triển kinh tế tri thức tại Việt Nam sau ĐH Đảng toàn quốc lần thứ IX.
Gần 10 năm sau, năm 2010 Thủ tướng Chính phủ tiếp tục quyết định thành lập Khu CNC Đà Nẵng trên diện tích hơn 1.129 hecta. Sau khi có quy hoặc tổng thể được phê duyệt từ năm 2012 công tác xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật giai đoạn 1 trên phần diện tích gần 400 hecta đã hoàn thành gần 70% khối lượng. Tổng số vốn đầu tư bố trí cho dự án này tính đến nay gần 1.500 tỷ, trong đó vốn từ ngân sách trung ương chiếm trên 1.000 tỷ, vốn đối ứng từ ngân sách địa phương chiếm hơn 215 tỷ đồng và khoảng 245 tỷ đồng được đầu tư bởi các nguồn khác .
KCNC Hòa Lạc, TP.HCM và Đà Nẵng là ba Khu CNC cấp quốc gia lần lượt xây dựng trên ba vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam: Vùng kinh tế Bắc Bộ với trung tâm kinh tế Hà Nội, vùng kinh tế Nam Bộ với vị trí xoay trục tại TP.HCM và vùng kinh tế phía Trung với vai trò điều phối của Đà Nẵng. Đương nhiên, vì trong giai đoạn xây dựng nên quá trình thu hút dự án đầu tư và xúc tiến các hoạt động khoa học công nghệ của Khu CNC vẫn còn nhiều hạn chế. Một phần khác, sự tác động của môi trường kinh doanh, mức độ cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia và vùng lẫn thể chế thu hút đầu tư hay các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất hoạt động của các Khu CNC cũng có thể được xem là các nhân tố có ảnh hưởng nhất định đến quá trình tạo chất xúc tác cho nền kinh tế của Khu CNC.
Nhưng điều quan trọng là sau khi có sự hiện diện của ba khu CNC quốc gia, Việt Nam vẫn tiếp tục hình thành thêm các Khu CNC chuyên biệt khác. Đương nhiên, điều này xuất phát từ sự trỗi dậy của chính sách phát triển kinh tế hướng đến khoa học và tri thức như đã đề cập ở phần trên. Khu CNC tiếp theo đầu tiên chính là Khu CNC công nghệ sinh học được xây dựng tại Đồng Nai trên cơ sở Quyết định được Thủ tướng Chính phủ ban hành vào năm 2016. Thực ra, Khu CNC Đồng Nai chính là sự kế thừa và phát triển từ Trung tâm ứng dụng công nghệ sinh học được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2008 bởi UBND tỉnh Đồng Nai. Như vậy, có hai điểm cần lưu ý đối với Khu CNC Đồng Nai. Một, từ một đơn vị khoa học công nghệ cấp địa phương, Khu CNC Đồng Nai chính thức trở thành Khu CNC cấp quốc gia. Và hai, đây là một Khu CNC chuyên ngành, định hướng phát triển sâu về công nghệ sinh học.
Bên cạnh đó, có hai khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cũng đã đươc thành lập tại Hậu Giang và Phú Yên. Khu nông nghiệp ứng dụng CNC Hậu Giang được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ vào năm 2012. Diện tích quy hoạch tổng thể của khu là 415 hecta trên địa bàn huyện Long Mỹ. Khu nông nghiệp ứng dụng CNC Phú Yên được thành lập vào năm 2013 trên phần diện tích 460 hecta thuộc huyện Phú Hòa.
Điều đáng nói là theo phương án quy hoạch phát triển tổng thể được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2015, Việt Nam sẽ không tiếp tục hình thành các Khu CNC quốc gia. Thay vào đó, ngoài việc tiếp tục duy trì 3 khu CNC quốc gia Hòa Lạc, TP.HCM và Đà Nẵng, Việt Nam xúc tiến thành lập Khu CNC chuyên ngành. Đặc biệt, quy mô địa phương cho Khu CNC sẽ được lựa chọn. Có nghĩa, chính quyền địa phương sẽ là đơn vị quyết định thành lập và quản lý hoạt động của các Khu CNC này.
Tọa lạc trên phần diện tích hơn 200 hecta thuộc huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, Khu CNC Đồng Nai là người bạn hàng xóm của Khu CNC TP.HCM. Điều này tạo cơ hội thuận lợi để phát triển mạng lưới kết nối trong phát triển khoa học công nghệ mà cụ thể là triển khai các dự án chung giữa hai khu. Trong tương lai, Khu CNC sinh học Hà Nội, Khu CNC Ascendas-Protrade Bình Dương và Khu CNC Cần Thơ cũng đang được xúc tiến và có thể được thành lập trong thời gian tới. Tương tự, quy hoạch tổng thể phát triển các khu nông nghiệp ứng dụng CNC cũng xác định có thêm 8 khu trực thuộc địa phương được triển khai xây dựng khoản năm 2020.
Nói tóm lại, hệ thống các Khu CNC đã và đang hình thành và phát triển một cách mạnh mẽ ở Việt Nam. Điều này vừa dự báo định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam vừa đặt ra thách thức không nhỏ về việc hoàn thiện thể chế pháp lý kích hoạt các Khu CNC hoạt động hiệu quả trong thời gian tới.
Ngoài ra, Việt nam còn có hai Khu CNC khác đang hoạt động. Đó là Công viên phầm mềm Quang Trung (QTSC) và Khu công nghệ phần mềm ĐHQG TP.HCM (ITP). Về mặt pháp lý, đây không phải là các Khu CNC quốc gia. Tuy nhiên, vai trò và những đóng góp của QTSC và ITP thời gian qua là rất lớn, và vì vậy có thể nói đây là hai nhân tố đóng góp quan trọng trong hệ sinh thái Khu CNC ở nước ta. Phần nội dung này đề cập đến QTSC và ITP một mặt giới thiệu bức tranh tổng quát về Khu CNC để từ đó định vị được các Khu CNC quốc gia, mặt khác nội dung này giúp cho quá trình phân tích tiếp theo được rõ ràng, tránh sự nhầm lẫn giữa các Khu CNC quốc gia và các mô hình khác.
Công viên phần mềm Quang Trung là công trình kinh tế trọng điểm của TP.HCM, được thành lập từ năm 2001. Mục tiêu ban đầu của QTSC nhằm hướng đến “thúc đẩy sự nghiệp phát triển công nghệ thông tin của đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố trong thời kỳ hội nhập” [349]. Có nghĩa, TP.HCM kỳ vọng rằng, QTSC khi đi vào hoạt động có thể kích hoạt và kéo đà tăng trưởng tỷ trọng công nghệ và sản phẩm công nghệ trong cơ cấu nền kinh tế.
Khởi điểm, QTSC được định hướng phát triển thành đô thị phần mềm (software city) với diện tích xây dựng lên đến hơn 43 hecta. Với sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính quyền TP.HCM, quá trình xây dựng QTSC diễn ra khá nhanh, và trở thành một trong những biểu tượng phát triển công nghệ tiêu biểu của thành phố. Cụ thể, đến nay cơ sở hạ tầng của QTSC khá hoàn chỉnh, với 20 tòa nhà văn phòng, 20 bãi đỗ xe, có cả khu chuyên gia, khu ký túc xá. Hệ thống điện ngầm hóa và xử lý nước thải đầy đủ và hoàn thiện. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ như ngân hàng, trường học, trường mầm non cũng được thiết kế, xây dựng và tọa lạc để đảm bảo sự tiện lợi cho một hệ sinh thái khép kín. Đáng chú ý, có 8 trường đại học và viện đào tạo CNTT, lẫn trung tâm ươm tạo doanh nghiệp và hỗ trợ kinh doanh cũng được thành lập và hoạt động trong Công viên. Sự tham gia của khoản 160 doanh nghiệp, với một số doanh nghiệp có quy mô lớn, trên 1.000 người phần nào phản ánh mức hộ hoàn thiện và hấp dẫn của QTSC.
Sau khi được chứng nhận là Khu công nghệ thông tin tập trung của Bộ TTTT, năm 2016, QTSC tiếp tục định hướng phát triển thành Chuỗi công viên phần mềm Quang Trung theo đề án thí điểm của Chính phủ để “tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp phần mềm và khởi nghiệp sáng tạo để phát huy vai trò và thương hiệu sẵn có” cùng với Khu Công viên Phần mềm ĐH Quốc Gia TPHCM. Định hướng này tiếp tục tạo đà để QTSC tiếp tục triển khai các hoạt động hỗ trợ nghiên cứu và công bố kết quả nghiên cứu trong toàn khu.
Cùng thời điểm, chủ trương thành lập Khu công nghệ phầm mềm ĐHQG TP.HCM được thông qua vào năm 2001 sau hơn 5 năm ĐHQG TP.HCM đi vào hoạt động và Việt Nam đang chú tâm vào phát triển hệ sinh thái công nghệ như đã trình bày. Cùng với QTSC, một lần nữa công nghệ phần mềm trở thành điểm nhấn trong chiến lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế.
Điều đáng quan tâm là ở thời điểm đó, mô hình phát triển hệ sinh thái công nghệ gắn với đại học vẫn phổ biến, và chiến lược tầm nhìn phát triển của ĐHQG vẫn được xác định theo lộ trình đó. Theo đó, nội dung tầm nhìn của ITP được xác định: (i) Xây dựng môi trường công nghiệp trong lòng đại học trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông; (ii) phát triển thành một trung tâm phát triển công nghệ mạnh trong lĩnh vực CNTT-TT; và (iii) góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp CNTT-TT .
Năm 2003, Giám đốc ĐHQG TP.HCM chính thức quyết định thành lập Khu công nghệ phần mềm. Điều đó cho thấy, ứng với lý thuyết và mô hình xu hướng, Khu công nghệ phầm mềm là thành tố cấu thành trong hệ sinh thái giáo dục-đào tạo và công nghệ ĐHQG. Đương nhiên, ngoại tác tích cực, và tính liên hệ với hệ sinh thái công nghệ quốc gia, và khu vực, đặc biệt là sự gắn bó với Khu CNC TP.HCM là điều không thể phủ nhận.
Sự phát triển của ITP đến nay có hai điểm đáng chú ý. Một, từ một đơn vị hành chính sự nghiệp hoạch toán phụ thuộc ĐHQG TP.HCM, ITP chính thức chuyển đổi thành đơn vị hoạt động theo mô hình tổ chức khoa học và công nghệ tự chủ tài chính, có nghĩa tự trang trải kinh phí hoạt động thường xuyên từ năm 2009. Và hai, năm năm sau đó, từ năm 2013 thay đổi định hướng để phát triển theo mô hình hệ sinh thái khởi nghiệp, hướng đến xây dựng ITP thành trung tâm của khởi nghiệp và sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông của Việt Nam. Điều này vừa thu hẹp quy mô, mục tiêu, chức năng của ITP nhưng vừa tập trung mở ra một cơ hội mới để “các dự án khởi nghiệp được ươm mầm và phát triển.” Cụ thể, mục tiêu hoạt động hiện tại của ITP là: (i) Xây dựng và phát triển cụm khởi nghiệp CNTT-TT; (ii) Thúc đẩy khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực CNTT-TT; và (iii) Phát triển nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.
4.2.2. Khu CNC TP.HCM
Ý tưởng xây dựng Khu CNC TP. HCM được hình thành khá sớm. Ngày 06/8/1996, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 519/1996/QĐ-TTg để phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng giai đoạn 1996–2000. Trong đó,dự án Khu CNC TP.HCM giai đoạn I với diện tích 300 hecta được xác định là dự án ưu tiên cấp quốc gia. Tiếp theo, Thủ tướng Chínhphủ đã ký Quyết định số 989/1998/QĐ- TTg vào ngày 01/11/1998 để giao UBND TP.HCM chủ trì, cùng phối hợp với Bộ chủ quản và liên quan xây dựng quy hoạch tổng thể cũng như nghiên cứu khả thi giai đoạn I của Khu CNC TP.HCM.
Năm năm sau, vào năm 2003 Thủ tưởng cũng đã chính thức phê duyệt quy hoạch tổng thể dự án đầu tư xây dựng giai đoạn II Khu CNC TP.HCM. Đặc biệt, để đẩy nhanh tiến độ xây dựng từ năm 2007 Thủ tưởng Chính phủ đã ủy quyền UBND TP.HCM phê duyệt nhiệm vụ và đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng khu CNC TP.HCM theo tỷ lệ 1/5.000. Hay nói cách khác, trên cơ sở sự ủy quyền này UBND TP.HCM được quyền chủ động quyết định, điều chỉnh các nội dung triển khai thực hiện trong cả giai đoạn I và II của dự án. Đồng thời, UBND TP.HCM cũng đã có quyền quyết định các hạng mục ưu tiên đầu tư và tiến hành tổ chức triển khai thực hiện nhanh chóng cả dự án đầu tư giai đoạn II.
Tọa lạc tại quận 9, cửa ngõ phía đông của TP.HCM, trung tâm kinh tế năng động bậc nhất cả nước, Khu CNC TP.HCM là “một khu kinh tế - kỹ thuật được xây dựng và phát triển trên cơ sở công nghệ cao, có tính chất đặc biệt, nhằm tập trung thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời huy động nguồn lực trong nước về khoa học và công nghệ để từ đó hình thành nên lực lượng sản xuất hiện đại, kết hợp có hiệu quả giữa sản xuất kinh doanh với nghiên cứu, tiếp thu, chuyển giao, phát triển công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp công nghệ cao, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” .
Tính đến nay, sau hơn 17 năm xây dựng, KCNC TP.HCM đã hoàn thành cơ sở hạ tầng của toàn khu. Các công trình, hạng mục thiết yếu và cả hạ tầng giao thông nội khu đã được hoàn thiện. Kết quả, Khu CNC TP.HCM đã thu hút thành công nhiều tập đoàn, công ty công nghệ cao vào đầu tư sản xuất sản phẩm, trong đó có không ít các thương hiệu đa quốc gia như Intel, Nidec, Jabil, Sonion, Sanofi, Samsung, Microchip, Schieder, TTI… và mới đây là Trường ĐH Fubright Việt Nam. Cụ thể, con số dự án lũy kế được cấp giấy chứng nhận đầu tư tính đến tháng 12/2019 là 154 dự án với tổng số vốn đầu tư đạt hơn 7,3 tỷ USD. Giá trị sản lượng sản xuất hàng năm của các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động tăng trưởng đều đặn. Đặc biệt, giá trị sản xuất của Khu (tính đến tháng 12/2019) đạt 17,011 tỷ USD và giá trị xuất khẩu là 15,6 tỷ USD dù chỉ có hơn 50% số dự án đi vào hoạt động.
Theo: Lê Bích Loan
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/1yXn6tCz5nEgwhK8_0Uvxh_PGvFg98p7O/edit
