
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
2.1. Lý luận về biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật
2.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật
Biện pháp là cách thức xử lý công việc hoặc giải quyết vấn đề 35. Vậy biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật là gì?
Xét dưới góc độ pháp lý, hành vi kết hôn trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, khiến cho các cơ quan nhà nước khó có thể nắm bắt và quản lý được các vấn đề liên quan đến hộ tịch, khai sinh hay giải quyết những tranh chấp khác. Bên cạnh đó, việc kết hôn trái pháp luật còn ảnh hưởng xấu tới nhiều mặt của đời sống xã hội như vi phạm nghiêm trọng về đạo đức, nhân cách, lối sống của gia đình Việt Nam, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hưởng đến sức khỏe và việc duy trì nòi giống của dân tộc. Do đó, Nhà nước ta đã thể hiện thái độ nghiêm khắc thông qua các biện pháp xử lý những trường hợp kết hôn trái pháp luật.
Biện pháp xử lý những trường hợp kết hôn trái pháp luật chính là cách thức mà nhà nước dùng để xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật về kết hôn.
Xử lý vi phạm pháp luật về kết hôn là một trong nội dung không thể thiếu đối với pháp luật điều chỉnh việc kết hôn. Bởi vì, xử lý vi phạm pháp luật về kết hôn là việc áp dụng các biện pháp chế tài cần thiết nhằm “bảo đảm” để điều kiện kết hôn được tuân thủ. Xử lý vi phạm pháp luật về kết hôn theo pháp luật Việt Nam đa dạng về các hình thức chế tài và không chỉ áp dụng riêng đối với người kết hôn mà còn áp dụng với những người có liên quan. Tùy từng trường hợp cụ thể mà hành vi vi phạm có thế bị xử lý ở từng mức độ khác nhau
Từ sự phân tích trên, dưới góc độ pháp lý có thể hiểu: Biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật là những cách thức do pháp luật quy định được áp dụng để giải quyết việc kết hôn trái pháp luật. Hay có thể hiểu, biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật là chế tài do nhà nước đặt ra đối với các chủ thể trong quan hệ kết hôn trái pháp luật nhằm đảm bảo sự ổn định của gia đình và trật tự xã hội.
Nhằm đảm bảo thực thi các nguyên tắc của Luật HN&GĐ cũng như duy trì và phát triển chế độ hôn nhân tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc và bền vững; đồng thời đảm bảo duy trì trật tự trị an xã hội, việc đặt ra các chế tài để áp dụng trong các trường hợp có vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn là rất cần thiết. Bằng các chế tài của pháp luật, việc xử lý kết hôn trái pháp luật đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân - các chủ thể bị hành vi kết hôn trái pháp luật này xâm hại và những chủ thể đặc biệt trong xã hội như phụ nữ và trẻ em. Đồng thời, việc xử lý các hành vi vi phạm này còn giúp các cơ quan nhà nước thuận tiện trong quá trình quản lý cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quan hệ HN&GĐ là những quan hệ vô cùng nhạy cảm nên việc xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật không chỉ đơn thuần là việc dùng sức mạnh của pháp luật để xử lý những vi phạm mà việc áp dụng những chế tài đó còn phải thật phù hợp với thực tế cuộc sống, hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Pháp luật luôn đi đôi với pháp chế, đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối của tất cả các chủ thể trong xã hội, nhưng áp dụng pháp luật để xử lý những vi phạm trong lĩnh vực HN&GĐ thì lại phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, không chỉ dựa trên quy định của pháp luật mà còn phải căn cứ vào thực tế các quan hệ hôn nhân cụ thể. Mục đích và ý nghĩa của việc xử lý những hình thức kết hôn trái pháp luật chỉ thực sự đạt được khi dung hòa được hai vấn đề này, đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, góp phần vào việc tạo ra những gia đình ổn định, hạnh phúc được xây dựng trên cơ sở tình yêu giữa vợ và chồng, tình yêu thương giữa cha mẹ và con cái. Gia đình hạnh phúc chính là những tế bào tốt của một xã hội văn minh, phát triển. Như vậy, những biện pháp này còn có ý nghĩa bình ổn các mối quan hệ trong xã hội, giữ tâm lý ổn định trong nhân dân, bảo vệ các giá trị truyền thống, những chuẩn mực về đạo đức cũng như những nét văn hóa của dân tộc.
Với những biện pháp như vậy, xử lý vi phạm pháp luật về kết hôn có mối liên hệ mật thiết với nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, trong đó bao gồm cả lĩnh vực luật nội dung cũng như luật hình thức. Xử lý vi phạm pháp luật về kết hôn có mối liên hệ chặt chẽ với các quy định của Luật hành chính và Luật Hình sự với tư cách là luật nội dung trong việc ghi nhận các biện pháp chế tài đối với từng hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn, tạo cơ sở pháp lý để xử lý hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn, đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xử lý vi phạm pháp luật về kết hôn có mối liên hệ với các quy định của Luật Bình đẳng giới. Với ý nghĩa là một ngành luật điều chỉnh các quan hệ giới và bình đẳng giới, Luật Bình đẳng giới thiết lập khung pháp lý chung mang tính chất nguyên tắc để đảm bảo bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, việc xử lý vi phạm pháp luật về kết hôn phải phù hợp với quy định của Luật bình đẳng giới, bảo đảm bình đẳng giới. Không chỉ vậy, xử lý vi phạm pháp luật về kết hôn cũng có mối liên hệ mật thiết không thể tách rời với các quy định của luật hình thức như Luật TTDS trong việc giải quyết vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật. Vì vậy, pháp luật điều chỉnh việc kết hôn có mối liên hệ không thể tách rời với các quy định pháp luật có liên quan tạo thành một chỉnh thể thống nhất, góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về kết hôn.
Kết hôn trái pháp luật là một trong những vấn đề gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển chung của cộng đồng và tác động xấu đến toàn xã hội nên việc đặt ra chế tài xử lý những trường hợp kết hôn trái pháp luật là hoàn toàn phù hợp và có ý nghĩa trong việc xây dựng và củng cố chế độ HN&GĐ nói chung. Do đó, về bản chất pháp lý thì biện pháp xử lý những trường hợp kết hôn trái pháp luật là chế tài vì nó thể hiện ý chí của nhà nước, buộc các bên kết hôn phải tuân theo mà không phụ thuộc vào ý chí của họ.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật là một biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm điều kiện kết hôn. Đây được coi là thái độ phủ định của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả các chính sách, pháp luật của Nhà nước đều được xây dựng và thực hiện xuất phát từ lợi ích của con người, cho con người, vì con người. Ngoài mục đích bảo vệ quyền con người, pháp luật còn bảo đảm trật tự xã hội và lợi ích chung của cả xã hội. Để đạt được mục đích đó thì mỗi công dân phải có ý thức tuân thủ pháp luật. Việc tuân thủ của mỗi cá thể trong xã hội sẽ được nhà nước thừa nhận và bảo hộ. Các hành vi vi phạm quy định của pháp luật đều phải xử lý. Hành vi không tuân thủ các điều kiện kết hôn được pháp luật quy định cũng sẽ bị xử lý. “Hủy” chính là sự thể hiện thái độ không đồng tình của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, các chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi đối với hành vi vi phạm của mình.
Thứ hai, biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật mang tính chất mềm dẻo và linh hoạt. Sự linh hoạt, mềm dẻo thể hiện trong nguyên tắc xử lý. Khi xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật phải căn cứ vào hoàn cảnh, thời điểm, mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm để đưa ra quyết định. Tuy nhiên, biện pháp chế tài được áp dụng đối với những người vi phạm pháp luật phải trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục, thu hút sự tham gia của xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm nói chung và vi phạm pháp luật về kết hôn nói riêng.
Thứ ba, biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật rất đa dạng, bảo đảm tính nghiêm minh của nhà nước trong việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật. Đây là điểm rất đặc biệt của biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật. Biện pháp này không chỉ dừng lại ở việc kiện dân sự mà có thể mở rộng sang việc XLVPHC hoặc xử lý hình sự, tuỳ vào mức độ vi phạm của hành vi. Với sự đa dạng của biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật đã góp phần vào việc xây dựng chế độ HN&GĐ tự nguyện, tiến bộ, bảo đảm thuần phong mỹ tục, đem lại hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong đời sống xã hội, ngăn chặn hành vi vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn.
2.1.2. Các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật
2.1.2.1. Biện pháp dân sự (Hủy việc kết hôn trái pháp luật)
Biện pháp dân sự trong xử lý việc kết hôn trái pháp luật được pháp luật đề cập đến chính là Hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật là việc Tòa án áp dụng các quy định của pháp luật dân sự để giải quyết các mối quan hệ giữa các bên chủ thể liên quan trong việc kết hôn trái pháp luật.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật được coi là biện pháp chủ đạo khi xử lý kết hôn trái pháp luật. Biện pháp này là tiền đề, là cơ sở để tiếp tục thực hiện các biện pháp xử lý khác khi các bên chủ thể trong kết hôn trái pháp luật vẫn cố ý duy trì quan hệ chung sống trái pháp luật hoặc gây ra những hậu quả nhất định.
“Hủy”có nghĩa là “phá bỏ, làm cho không còn tồn tại hoặc không có giá trị”36. Có thể hiểu, huỷ việc kết hôn trái pháp luật là việc Tòa án theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tác động tới việc kết hôn trái pháp luật làm cho quan hệ đó không còn tồn tại hoặc không có giá trị pháp lý nữa. Đây là sự thể hiện thái độ phủ định, không thừa nhận của nhà nước đối với việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng nhưng không tuân thủ các quy định về điều kiện kết hôn. Là biện pháp chế tài nên các bên phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi từ hành vi vi phạm đó, giữa các bên không phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng kể từ thời điểm đăng ký kết hôn trái pháp luật.
Từ sự phân tích trên, có thể thấy: “Huỷ việc kết hôn trái pháp luật là một chế tài dân sự được áp dụng đối với việc kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn của các chủ thể kết hôn trong quan hệ kết hôn trái pháp luật”.
Nghiên cứu về vấn đề này cho thấy, quan điểm lập pháp của các nước cũng như của Việt Nam, vẫn có những ngoại lệ nhất định khi xử lý kết hôn trái pháp luật, dựa trên tính chất đặc biệt của quan hệ HN&GĐ nói chung và quan hệ hôn nhân nói riêng. Vì vậy, ngay cả khi là trái pháp luật thì việc kết hôn đó vẫn có thể được thừa nhận với những điều kiện nhất định. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị phát hiện và có yêu cầu xử lý, có hai trường hợp xảy ra:
- Trường hợp thứ nhất, việc kết hôn trái pháp luật đó không bị huỷ do các bên không còn vi phạm điều kiện kết hôn nữa và có ý chí tự nguyện thừa nhận, muốn duy trì quan hệ đó. Đối với trường hợp này, ngoài giấy chứng nhận kết hôn vẫn có giá trị pháp lý, phải thêm ý chí tự nguyện của các bên và việc công nhận của Toà án bằng một quyết định có hiệu lực. Với một loạt các hành vi pháp lý này, kết hôn trái pháp luật sẽ không còn bị coi là kết hôn trái pháp luật nữa và vẫn được công nhận quan hệ vợ chồng.
- Trường hợp thứ hai, việc kết hôn trái pháp luật bị huỷ và các bên chưa từng tồn tại quan hệ vợ chồng. Sau khi huỷ việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải giải quyết các mối quan hệ phát sinh từ việc kết hôn trái pháp luật đó, gồm các mối quan hệ về nhân thân và tài sản giữa hai bên kết hôn trái pháp luật với nhau và giữa hai bên kết hôn trái pháp luật với người thứ ba. Đặc biệt là quan hệ đối với tài sản khi các bên lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận hay chế độ tài sản theo luật định. Việc kết hôn trái pháp luật có thể tồn tại rất lâu mới bị phát hiện và bị huỷ. Thậm chí có thể tồn tại khi một trong hai bên chết mới lật lại vấn đề có huỷ việc kết hôn trái pháp luật hay không để xác định các quan hệ phát sinh từ việc kết hôn trái pháp luật đó vì còn liên quan đến vấn đề thừa kế tài sản giữa các bên kết hôn trái pháp luật.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, hủy việc kết hôn trái pháp luật là một loại “việc dân sự”. Vì vậy, đường lối giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp luật tuân theo các quy định về thủ tục giải quyết các việc dân sự. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp luật là TAND. Thông thường là TAND cấp huyện nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của một trong hai bên hoặc TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với việc hủy kết hôn trái pháp luật có yếu tố nước ngoài. Là một loại việc dân sự, hủy việc kết hôn trái pháp luật có những đặc thù riêng. Về nguyên tắc, Tòa án không tiến hành hòa giải mà điều tra xác minh nếu xét thấy có dấu hiệu vi phạm điều kiện thì áp dụng các quy định của pháp luật xử hủy việc kết hôn trái pháp luật. Cùng với đó, dựa vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, nhà làm luật quy định cụ thể đường lối xử lý phù hợp đối với các trường hợp kết hôn trái pháp luật.
2.1.2.2. Biện pháp hành chính (Xử lý vi phạm hành chính)
Biện pháp hành chính là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các quy định về xử phạt hành chính đối với các bên kết hôn trái pháp luật và các chủ thể thực hiện những hành vi vi phạm liên quan đến kết hôn trái pháp luật nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý các bên kết hôn trái pháp luật khi có hành vi vi phạm hành chính như cố ý duy trì quan hệ chung sống trái pháp luật giữa các bên kết hôn trái pháp luật, hoặc vi phạm điều kiện kết hôn mà pháp luật hành chính cho rằng đã vi phạm trật tự công cộng và cần phải xử lý. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng biện pháp hành chính có thể không được áp dụng đối với một số chủ thể trong quan hệ kết hôn trái pháp luật vì các lý do như độ tuổi hoặc là nạn nhân của việc kết hôn trái pháp luật. Chẳng hạn, các bên kết hôn bị cha, mẹ cưỡng ép kết hôn thì sẽ không thể áp dụng biện pháp hành chính đối với hai bên kết hôn do bị cưỡng ép đó. Mặt khác, biện pháp hành chính cũng có thể được áp dụng đối với những chủ thể khác (không phải là hai bên kết hôn) có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HN&GĐ như: tổ chức tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện… hoặc vi phạm quy định về đăng ký kết hôn.
Có thể kết hợp đa dạng nhiều hình thức xử lý khác nhau với các bên kết hôn trái pháp luật và các chủ thể có liên quan. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp hành chính khi xử lý quan hệ kết hôn trái pháp luật phải thực hiện theo các quy định của pháp luật về XLVPHC.
Do tính chất đặc thù của quan hệ HN&GĐ nên biện pháp hành chính được áp dụng phổ biến để xử lý kết hôn trái pháp luật là cảnh cáo và phạt tiền.
2.1.2.3. Biện pháp hình sự (Xử lý hình sự)
Biện pháp hình sự là việc các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các quy định trong pháp luật hình sự để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực HN&GĐ khi các bên kết hôn trái pháp luật và các chủ thể thực hiện những hành vi vi phạm liên quan đến kết hôn trái pháp luật đã có đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Biện pháp hình sự được áp dụng để xử lý kết hôn trái pháp luật là biện pháp cuối cùng, được coi là chế tài nặng nhất đối với hành vi vi phạm điều kiện kết hôn của các bên kết hôn trái pháp luật và các chủ thể khác liên quan. Điều kiện để áp dụng biện pháp hình sự là phải đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Mức độ nguy hiểm đến đâu thì có hình phạt tương ứng đến đó. Tính nguy hiểm cho xã hội là cơ sở để cá thể hóa hình phạt trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Trong từng trường hợp cụ thể mà từng người phạm tội khác nhau phải chịu những hình phạt khác nhau. Tuy nhiên, hình phạt theo Luật Hình sự Việt Nam không coi trừng trị người phạm tội là mục đích chủ yếu mà mục đích chủ yếu là cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ từ một con người lầm lỗi, vi phạm pháp luật trở thành người có ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Điều này được thể hiện rất rõ trong các quy định về hình phạt đối với các tội phạm về HN&GĐ.
Tuy nhiên, việc xử lý hình sự đối với các vi phạm pháp luật về HN&GĐ nói chung và kết hôn nói riêng còn rất hạn chế. Tình trạng vi phạm chế độ một vợ, một chồng xảy ra tương đối nhiều, đặc biệt là ở nông thôn và miền núi nhưng rất ít bị xử lý. Vì vậy, chế tài hình sự được xem như một thứ “công cụ pháp lý bị lãng quên”. Từ đó dẫn đến tâm lý coi thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống HN&GĐ. Vì thế, pháp luật về hình sự chưa phát huy được hiệu quả như một công cụ pháp lý hữu hiệu để Luật HN&GĐ được tuân thủ. Để khắc phục tình trạng này, BLHS năm 2015 (từ Điều 182 đến Điều 187) đã quy định nhiều tội danh liên quan đến việc kết hôn trái pháp luật, thể hiện thái độ nghiêm khắc của nhà nước trước hành vi cố ý duy trì việc kết hôn trái pháp luật, có thể gây ra những hậu quả xấu cho các thành viên trong gia đình, đặc biệt là con cái.
2.1.3. Ý nghĩa của việc áp dụng những biện pháp xử lý đối với các trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật
Thứ nhất, việc áp dụng các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật sẽ góp phần vào sự ổn định trật tự công cộng, đảm bảo sự ổn định của xã hội ở một chừng mực nhất định. Các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật được coi là các chế tài áp dụng cho các hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn tương ứng với mức độ của việc vi phạm. Việc đưa ra các biện pháp chế tài này đã phần nào giảm bớt tình trạng kết hôn trái pháp luật. Chẳng hạn, khi đặt ra các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật, có thể sẽ làm giảm thiểu tình trạng tảo hôn, kết hôn giả tạo, kết hôn vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng... Nhà nước đưa các quan hệ kết hôn về đúng quỹ đạo của nó, để các quan hệ HN&GĐ tồn tại và phát triển theo đúng định hướng mà nhà nước mong muốn.
Thứ hai, việc áp dụng các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích chung của gia đình và xã hội. Khi các biện pháp này được áp dụng để xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật trên thực tế, các bên trong kết hôn trái pháp luật phải chấm dứt ngay hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn. Điều đó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ kết hôn trái pháp luật và các chủ thể có liên quan. Bởi vì, việc chấm dứt ngay hành vi vi phạm sẽ giảm bớt nguy cơ sinh ra những đứa trẻ dị tật do kết hôn cận huyết thống hoặc giảm bớt tình trạng trẻ em lang thang cơ nhỡ do bố mẹ vi phạm chế độ một vợ một chồng dẫn đến bất hòa trong gia đình gây nên…
Thứ ba, việc áp dụng các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam. Các truyền thống về tình cảm gia đình, tình yêu thương, sự chia sẻ khó khăn của hai vợ chồng là những truyền thống tốt đẹp được lưu giữ qua nhiều thế hệ. Việc áp dụng các biện pháp xử lý những trường hợp kết hôn trái pháp luật tạo ra sự răn đe đối với các bên kết hôn và các chủ thể liên quan khi có ý định vi phạm điều kiện kết hôn. Từ đó, góp phần quan trọng vào việc ngăn ngừa tình trạng kết hôn trái pháp luật. Chẳng hạn, sự chung thủy là một nét văn hóa truyền thống của con người Việt Nam. Việc xử lý kết hôn trái pháp luật trong trường hợp vi phạm chế độ một vợ, một chồng tức là kết hôn khi đang có vợ, có chồng chính là biện pháp giữ gìn truyền thống chung thủy của dân tộc ta…
Thứ tư, việc áp dụng các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật góp phần giảm tải sức nặng đối với nền kinh tế, đẩy lùi tình trạng đói nghèo và lạc hậu, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Giảm đi những con người dị tật, những con người bị mắc bệnh truyền nhiễm, những trẻ em lang thang cơ nhỡ, xã hội sẽ bớt đi gánh nặng phải nuôi dưỡng những đối tượng này. Mặt khác, ngăn chặn được tình trạng kết hôn trái pháp luật, xã hội sẽ tạo ra được nhiều gia đình hạnh phúc bền vững, sinh ra được nguồn nhân lực có chất lượng cao để cung cấp cho nền kinh tế. Hơn nữa, khi các bên kết hôn trái pháp luật bị chấm dứt quan hệ, họ sẽ không thể cùng tham gia vào các mối quan hệ kinh tế với tư cách là vợ chồng mà chỉ có thể tham gia với tư cách cá nhân. Điều đó sẽ góp phần ổn định các mối quan hệ về kinh tế trong xã hội.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh kết hôn trái pháp luật và biện pháp xử lý
2.2.1. Những yếu tố về tâm lý, truyền thống, phong tục, tập quán và đạo đức xã hội
2.2.1.1. Yếu tố tâm lý
Yếu tố tâm lý có tác động rất lớn đến việc kết hôn trái pháp luật và cách thức xử lý việc kết hôn trái pháp luật. Bởi vì tâm lý chính là “toàn bộ sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí... biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ của mỗi người”37. Trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, ở thời kỳ nguyên thuỷ, quan hệ giữa người đàn ông và người đàn bà gọi là quan hệ tính giao - mang tính chất bầy đàn và bữa bãi. Lúc bấy giờ, yếu tố bản năng đóng vai trò quan trọng, chi phối tới hành vi, cách ứng xử của của con người. Tâm lý bầy đàn, thoả mãn nhu cầu của cá nhân mà chưa đủ sự nhận thức để hình dung hậu quả của nó. Dần dần khi xã hội phát triển, có sự tác động đến sự phát triển tâm lý của con người, trong quan hệ giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng cũng vậy. Người chồng muốn thống trị gia đình. Tâm lý của người vợ, lúc ban đầu cũng chỉ muốn hiến thân chỉ với một người đàn ông và coi đó là sự giải phóng. Họ luôn có mong muốn mình phải tuyệt đối chung tình với chồng, thỏa mãn được đời sống tâm lý của người chồng. Vì vậy, tâm lý của cả hai vợ chồng, lúc ban đầu là cùng nhìn về một hướng, thống nhất lẫn nhau với một niềm tin nội tâm tuyệt đối. Như vậy, trong giai đoạn này, pháp luật không cần điều chỉnh quan hệ kết hôn trái pháp luật và đưa ra cách thức xử lý. Song yếu tố lịch sử - xã hội đã chi phối rất nhiều tới sự phát triển tâm lý của vợ chồng.“Quan hệ vợ chồng là quan hệ ra đời rất sớm, bắt nguồn từ những nhu cầu cơ bản có tính chất sinh học. Nếu không có quan hệ hôn nhân và tái sản xuất ra con người thì quan hệ giữa hai người có thể chỉ là tình bạn, tình đồng nghiệp, đồng chí…”38. Quan hệ vợ chồng được thiết lập chủ yếu do tình cảm. Tình cảm là yếu tố chủ yếu quyết định đến việc phát sinh, tồn tại hay chấm dứt một quan hệ pháp luật HN&GĐ.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng rất nhiều tới yếu tố tâm lý của cá nhân. Tính lịch sử xã hội trong tâm lý của vợ chồng vẫn là nền tảng, làm cơ sở để điều chỉnh quan hệ giữa vợ - chồng và các mối quan hệ ngoài hôn nhân mà vợ, chồng tham gia. Pháp luật luôn quan tâm đến yếu tố này để xây dựng những chuẩn mực pháp lý trong việc điều chỉnh việc kết hôn trái pháp luật và cách thức xử lý vấn đề đó. Tâm lý của mỗi bên vợ, chồng cũng có những thay đổi nhất định. Khi họ không thoả mãn được với nhau, mỗi người có thể lại muốn thiết lập các mối quan hệ khác và những mối quan hệ ngoài hôn nhân rất dễ để lại những hậu quả nhất định. Từ đó, có ảnh hưởng tới quan hệ vợ chồng cũng như kéo theo các mối quan hệ khác trong gia đình và ngoài xã hội. Những mối quan hệ này, chúng ta thường gọi đó là ngoại tình, quan hệ ngoài hôn nhân, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng... Mặt khác, những quan niệm về tình yêu, hôn nhân, gia đình trong xã hội hiện đại cũng thay đổi nhiều theo chiều hướng mới mở hơn. Vì vậy, khi một người vợ, người chồng có quan hệ ngoài hôn nhân, về mặt tâm lý, có thể họ không còn bị mặc cảm tội lỗi. Lúc này, tâm lý của người vợ, người chồng diễn biến khá phức tạp, thậm chí là trái ngược lẫn nhau. Một người chồng hoặc người vợ có quan hệ ngoài hôn nhân hay vợ chồng không còn quan tâm đến nhau hay một người vợ bị rơi vào trạng thái tâm lý cảm thấy cô đơn, bị bỏ rơi… sẽ rất dễ thiết lập những quan hệ tình cảm khác. Đây là một hệ quả đương nhiên, xuất phát trước hết từ bản năng gốc, những nhu cầu xã hội rất tự nhiên của con người. Do đó, đây cũng là một góc độ tâm lý mà pháp luật cần phải điều chỉnh việc kết hôn trái pháp luật và cách thức xử lý vấn đề đó.
Tâm lý của người đàn ông nói chung, người chồng nói riêng khi tồn tại hai mối quan hệ: hôn nhân hợp pháp và hôn nhân trái pháp luật thì hoặc là muốn tồn tại cả hai quan hệ hoặc là quay về với gia đình hoặc là buông bỏ gia đình muốn duy trì quan hệ kết hôn trái pháp luật. Do đó, pháp luật cũng phải tính đến yếu tố tâm lý này để điều chỉnh việc kết hôn trái pháp luật cho thấu tình đạt lý. Tâm lý của người phụ nữ nói chung và người vợ nói riêng khi rơi vào mối quan hệ kết hôn trái pháp luật, họ là người lựa chọn việc kết hôn trái pháp luật hoặc họ là người bị ảnh hưởng bởi kết hôn trái pháp luật do chồng gây ra, họ sẽ bảo vệ gia đình mình bằng mọi giá và tìm cách xử lý việc kết hôn trái pháp luật kia mà không có sự nhân nhượng nào. Do đó, khi pháp luật điều chỉnh việc kết hôn trái pháp luật và cách thức xử lý cũng cần phải dựa vào yếu tố tâm lý của các chủ thể trong các quan hệ HN&GĐ.
Như vậy, yếu tố tâm lý là một yếu tố ảnh hưởng đến kết hôn trái pháp luật, cách thức xử lý việc kết hôn trái pháp luật mà nhà lập pháp cần tính đến để pháp luật điều chỉnh vấn đề này đáp ứng được những vấn đề nảy sinh trên thực tế.
2.2.1.2. Truyền thống, phong tục, tập quán và đạo đức xã hội
Truyền thống là “thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác” 39. Trong xã hội Việt Nam, truyền thống có ảnh hưởng sâu sắc tới mỗi thành viên trong gia đình từ nhân cách, phẩm giá, cách ứng xử…. Người phụ nữ Việt Nam thường rất thủy chung, khi đã kết hôn, bằng mọi cách họ muốn bảo vệ gia đình của mình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và con cái của họ về nhân thân và tài sản. Do đó, khi giải quyết việc kết hôn trái pháp luật cần phải xem xét đến yếu tố này. Ngược lại, cũng theo truyền thống, người đàn ông vẫn có tư tưởng năm thê bảy thiếp nên việc xác lập và duy trì việc kết hôn trái pháp luật là mong muốn của họ, việc san sẻ tình cảm và tài sản như là một điều đương nhiên. Vì vậy, việc điều chỉnh quan hệ kết hôn trái pháp luật là rất cần thiết.
Bên cạnh yếu tố truyền thống thì phong tục, tập quán cũng là một trong các yếu tố mà nhà làm luật phải tính đến khi xây dựng pháp luật về kết hôn trái pháp luật.
Phong tục là “thói quen, tục lệ đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo”40. Tập quán là “thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận và làm theo”
Phong tục, tập quán có ảnh hưởng nhất định tới nhận thức của mỗi cá nhân. Ở Việt Nam còn có câu “phép vua thua lệ làng”, tức là, trong nhiều trường hợp, người ta còn coi trọng phong tục, tập quán hơn cả pháp luật. Phong tục, tập quán không chỉ thể hiện bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc mà nó còn chi phối, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, cách ứng xử của mỗi người trong các quan hệ xã hội. Ví dụ, các dân tộc ở Gia Lai rất tôn trọng chế độ hôn nhân một vợ một chồng, nếu vợ hoặc chồng ngoại tình sẽ bị phạt; ngược lại, ở một số đồng bảo dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi phía Bắc, hiện tượng “tảo hôn”, tục cướp vợ lại diễn ra phổ biến trên thực tế. Xét về mặt lịch sử, Việt Nam là một nước phương Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo, với truyền thống coi trọng gia đình, từ đó hình thành nên quan niệm “nữ thập tam, nam thập lục”. Quan niệm này được hình thành từ rất lâu trong đời sống xã hội và hiện nay ở nhiều miền quê Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng rất lớn của quan niệm này. Điều đó dẫn đến hiện tượng tảo hôn xảy ra ở nhiều nơi, nhất là nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó là hôn nhân cận huyết tồn tại từ thời kỳ phong kiến (mà tiêu biểu là ở thời kỳ nhà Trần) cho tới ngày nay. Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu và phát triển dân số (Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế), tại một số dân tộc như Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá, Chứt, Ê đê, Chu Ru... và đặc biệt là các dân tộc Si La (Điện Biên, Lai Châu), Lô Lô, Pu Péo (Hà Giang), Mông Xanh (Lào Cai), Rơ Mân, Brâu (Kon Tum) thì cứ 100 trường hợp kết hôn sẽ có 10 trường hợp là hôn nhân cận huyết thống42. Họ đang là những dân tộc ít người có nguy cơ suy giảm số lượng và chất lượng dân số rõ rệt do tình trạng giao phối hôn nhân cận huyết gây ra. Cũng theo tài liệu khảo cứu của Trung tâm này, có vùng đồng bào dân tộc vẫn áp dụng hôn nhân cận huyết thống một cách triệt để đến mức chỉ cho phép những người trong cùng họ hàng, huyết thống lấy nhau, nếu vi phạm sẽ bị phạt43. Những người dân tộc có hôn nhân cận huyết thống lý giải rằng: Chỉ họ hàng, cùng dòng máu lấy nhau thì mới thương yêu nhau, mới giữ được của cải vật chất trong nhà. Tổ tiên truyền lại rằng, lấy trong họ tộc để không mang của cải sang họ khác, vợ chồng cũng không bỏ nhau. Dưới góc nhìn của các nhà xã hội học, đây là một hủ tục khó có thể xóa bỏ ngay trong suy nghĩ của người dân, bởi nó đã được ngấm vào dòng máu như một thể di truyền từ đời này qua đời khác, không cần biết đến hậu quả lâu dài của nó là gì. Vì vậy, cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật nhằm ngăn chặn, xử lý tình trạng hôn nhân giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ và những người có họ hàng trong phạm vi ba đời.
Theo phong tục, tập quán và truyền thống của Việt Nam, trong mỗi gia đình phải có người nối dõi tông đường, phải có con trai... Do đó, khi người vợ không sinh được con trai thì chồng sẽ kết hôn với người khác để có con trai hoặc gia đình chồng yêu cầu ly hôn hoặc yêu cầu người chồng phải kết hôn hoặc chung sống với người khác để có con trai. Vì vậy, việc kết hôn trái pháp luật là một thực tế khách quan cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Như vậy, phong tục, tập quán là một yếu tố quan trọng mà pháp luật về HN&GĐ lấy làm căn cứ để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực HN&GĐ nói chung và việc kết hôn trái pháp luật cũng như cách thức xử lý đối với kết hôn trái pháp luật nói riêng.
Đạo đức cũng là một yếu tố có ảnh hưởng nhất định đến việc điều chỉnh pháp luật về kết hôn trái pháp luật và cách thức xử lý với việc kết hôn trái pháp luật. Đạo đức là“những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, qui định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”44. Đạo đức thường là những quy tắc, chuẩn mực hành vi ứng xử của con người, phù hợp với lợi ích chung của xã hội, phù hợp với giá trị tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Đạo đức là một loại thể chế đặc biệt, được điều tiết bằng dư luận và lương tâm. Sức điều tiết của nó cũng mạnh mẽ không thua kém pháp luật. Khi xây dựng pháp luật, đặc biệt là pháp luật về HN&GĐ, người ta luôn chú ý đến vấn đề đạo đức. Nhiều quy phạm pháp luật được nâng lên từ các quy phạm đạo đức. Đạo đức chính là sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Do đó, khi điều chỉnh việc kết hôn trái pháp luật, cần phải cân nhắc yếu tố lỗi, yếu tố tình cảm của các chủ thể, xem xét và cân nhắc cách thức xử lý như thế nào là hợp tình hợp lý, có tính đạo đức, giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực của việc kết hôn trái pháp luật đến các đương sự, đặc biệt là con chung. Đạo đức ở mỗi con người được biểu hiện ở năng lực hành động tự nguyện, tự giác vì lợi ích của những người khác và xã hội. Vì vậy, khi xử lý việc kết hôn trái pháp luật, cơ quan có thẩm quyền xử lý cần xem xét đến vấn đề lương tâm và đạo đức của các bên tham gia vào quan hệ kết hôn trái pháp luật và các chủ thể khác để có sự điều chỉnh cho hợp lý.
2.2.2. Yếu tố kinh tế - xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật
Kinh tế là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến tất cả các mối quan hệ trong xã hội, trong đó có quan hệ HN&GĐ. Trong xã hội phong kiến, vì hoàn cảnh kinh tế, vì những khoản nợ truyền đời mà có không ít những cuộc hôn nhân mang tính chất gả bán của cha mẹ. Vì hoàn cảnh mà đến ngay cả hạnh phúc của một đời người cũng có thể đem ra để trao đổi bằng tiền. Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, Việt Nam cũng đã có những chuyển biến căn bản và rõ rệt. Tình trạng gả bán, ép duyên dẫn đến kết hôn trái pháp luật chỉ còn tồn tại ở một số dân tộc miền núi, ít người. Song mặt trái của sự chuyển biến về kinh tế lại gây ra một tác động còn mạnh mẽ hơn đối với tình trạng kết hôn trái pháp luật. Sức mạnh của đồng tiền đã làm biến đổi ngay cả những hành vi, những xử sự thường nhật. Mục đích kinh tế được đặt lên trên khiến người ta có thể dễ dàng bỏ qua những lẽ sống, những chuẩn mực. Kết hôn lại được chuyển hóa thành những hợp đồng, những thỏa thuận mang nặng mục đích kinh tế mà coi nhẹ đi những chức năng của gia đình. Trong một bối cảnh xã hội như vậy sẽ dẫn đến việc tồn tại lối sống gấp, sống buông thả trong một bộ phận thanh niên hiện nay như là một tất yếu. Họ không cần nghĩ nhiều tới trách nhiệm và nghĩa vụ, không còn bị ràng buộc và bị gò bó nhiều bởi những phong tục và quan niệm truyền thống. Họ chung sống với nhau như vợ chồng, kết hôn sớm, kết hôn không tình yêu, kết hôn giả tạo … Do đó, pháp luật về kết hôn trái pháp luật cần quy định những căn cứ hủy cụ thể hơn cho những trường hợp này. Mặt khác, tính cạnh tranh của thị trường lao động để tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập... dẫn đến một số hiện tượng như lạm dụng tình dục, vợ hờ, vợ bé của một số người có chức vụ, quyền hạn, địa vị kinh tế trong xã hội; tình trạng “di dân đô thị” với “những điều kiện sống phổ biến trong các khu ổ chuột và phố xá lụp xụp”45, “phụ nữ di cư dễ bị rơi vào hoàn cảnh bị xâm hại tình dục hay làm gái mại dâm không mong muốn...”46. Điều này dẫn đến gia tăng việc kết hôn trái pháp luật và tính phức tạp khi giải quyết việc kết hôn trái pháp luật đó. Chính vì vậy, pháp luật về kết hôn trái pháp luật cần phải qui định cách thức xử lý nhưng đồng thời phải đảm bảo được tính khả thi và hiệu lực của các biện pháp xử lý đó trên thực tiễn.
Bên cạnh sự phát triển của kinh tế - xã hội, nền khoa học kỹ thuật hiện đại cũng đã có những bước phát triển vượt bậc, đặc biệt là về y sinh học. Vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, sự phát triển vượt bậc của công nghệ sinh học đã mang lại hạnh phúc cho nhiều cặp vợ chồng. Tình trạng hiếm muộn hiện nay cũng ngày càng phát triển, do nhiều nguyên nhân gây nên và điều đó có thể trở thành bi kịch cho cuộc sống hôn nhân, đe doạ sự bền vững của hôn nhân. Việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã mang lại cho họ những đứa con, niềm hạnh phúc trong cuộc sống của hôn nhân. Bệnh viện Từ Dũ hàng năm có khoảng trên 10.000 cặp vợ chồng đến khám và điều trị hiếm muộn. Điều đó chứng tỏ nhu cầu sinh con của những cặp vợ chồng hiếm muộn là rất lớn. Hiện nay, trên thế giới mỗi năm có gần nửa triệu trường hợp TTTON đã được thực hiện và hơn 100.000 em bé chào đời từ kỹ thuật này. Tổng số em bé TTTON trên thế giới là hơn 1,1 triệu và đang gia tăng nhanh chóng47. Tại Việt Nam, vào ngày 30/4/1998, ba em bé đầu tiên từ kỹ thuật TTTON đã chào đời, tính đến ngày 29/5/2006 ở Việt nam đã có 2.374 em bé TTTON 48. Như vậy, trung bình hàng năm có khoảng 300 em bé sinh ra do áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, chính điều này đã làm đảo lộn những quan niệm truyền thống về một người cha, một người mẹ, một đứa con. Những đứa trẻ cùng huyết thống nhưng lại được sinh ra từ các gia đình khác nhau, về mặt pháp lý, trên giấy tờ hộ tịch không cùng cha, mẹ. Khi trưởng thành, rất có thể họ sẽ kết hôn với nhau và vô hình chung họ đã vi phạm điều kiện kết hôn và trở thành kết hôn trái pháp luật. Đối với những trường hợp này, pháp luật cần phải tính đến và quy định chi tiết, cụ thể hơn bởi các bên kết hôn không có lỗi.
Bên cạnh đó, y học phát triển cũng đã giúp con người xác định lại được giới tính thật của mình, thậm chí còn có thể phẫu thuật để chuyển đổi giới tính. Ở một số quốc gia trên thế giới đã cho phép chuyển đổi giới tính và kết hôn đồng giới như ở Đan Mạch, Anh, Mỹ, Ý, Hà Lan… Chính sự phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại đã tạo điều kiện cho con người có thể thực hiện được những quyền tự do cá nhân một cách tối đa nhất. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa quy định việc xác định lại giới tính, chuyển giới và chưa thừa nhận kết hôn đồng giới. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chỉ quy định là “không thừa nhận” chứ không “cấm” kết hôn đồng giới, nghĩa là Nhà nước không can thiệp vào việc hai người cùng giới tính sống chung nên họ chỉ bị từ chối khi xin đăng ký kết hôn chứ không bị xử lý. Pháp luật cũng chưa dự liệu được trường hợp người đã chuyển giới sẽ xin đăng ký kết hôn với người khác giới (người cùng giới khi họ chưa chuyển giới).
Theo: Đức Thị Hòa
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/1vSFOdtNZFR3qHSBDXb3DskDOb5u86qGv/edit
