0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64a77eb6b5879-THỰC-TRẠNG-THỰC-HIỆN-CAM-KẾT-VỀ-QUYỀN-SỞ-HỮU-TRÍ-TUỆ-THEO-HIỆP-ĐỊNH-ĐỐI-TÁC-TOÀN-DIỆN-VÀ-TIẾN-BỘ-XUYÊN-THÁI-BÌNH-DƯƠNG-ĐỐI-VỚI-VIỆT-NAM--2-.jpg

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CAM KẾT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM

 

3.1  Thực trạng các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

3.1.1 Khái quát về nghĩa vụ thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

Chương 18 của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) bao gồm tám mươi ba (83) điều khoản sắp xếp theo các mục từ A đến K và các phụ lục từ A đến F. Chương này bao gồm các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ với những tiêu chuẩn bảo hộ đa phần là hơn hoặc bằng so với Hiệp định TRIPS. Điều này là bởi ngay từ đầu chương 18 được dẫn dắt bởi Hoa Kỳ - quốc gia “xuất khẩu” sản phẩm sáng tạo. Chính vì vậy, mười một (11) quốc gia thành viên còn lại đã phân tích những nội dung chưa phù hợp của chương 18 và cân nhắc tạm dừng thực hiện cho đến khi các thành viên nhất trí kết thúc việc tạm đình chỉ đó.

Theo đó, những nội dung tạm định chỉ gồm: Điều 18.8; Điều 18.37; Điều 18.46; Điều 18.48; Điều 18.50; Điều 18.51; Điều 18.63; Điều 18.68; Điều 18.69;

Điều 18.79; Điều 18.82; Phụ lục 18-E; Phụ lục 18-F. Những nội dung tạm đình chỉ này liên quan đến:

(i)  kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế khi cơ quan cấp bằng sáng chế tạo ra “sự trì hoãn không hợp lý” trong việc cấp bằng sáng chế [34] hoặc có một sự “trì hoãn không cần thiết” trong việc cấp giấy phép lưu hành dược phẩm [34];

(ii)   điều khoản mở rộng “các đối tượng có thể được cấp bằng sáng chế” đến những sản phẩm đã biết nhưng có công dụng mới, quy trình sử dụng mới hoặc cách thức sử dụng mới [34];

(iii)  quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả [34];

(iv)  các quy định về bảo vệ các kết quả thử nghiệm vã dữ liệu bí mật [34];

(v)  quy định liên quan tới bảo vệ sinh phẩm [34];

(vi)  điều khoản liên quan đến tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hóa và tín hiệu truyền hình cáp [34];

(vii)  quy định về phát triển hệ thống các biện pháp công nghệ phục vụ cho việc bảo vệ quyền và hệ thống thông tin quản lý quyền [34];

(viii)   quy định về nghĩa vụ của nhà cung cấp dịch vụ Internet khi có sự vi phạm bản quyền trực tuyến [34].

Chương 18 của Hiệp định CPTPP bao gồm các cam kết liên quan tới bảo hộ và thực thi quyền SHTT, các cam kết này được chia làm bốn nhóm nghĩa vụ chính dành cho các quốc gia thành viên.

Thứ nhất, nhóm các cam kết chung với các cam kết về việc gia nhập các Công ước về SHTT được liệt kê và mỗi quốc gia thành viên được hưởng một lộ trình gia nhập khác nhau [34]. Ví dụ, Việt Nam có lộ trình gia nhập là từ hai (02) đến ba (03) năm tùy công ước, trong khi đó lộ trình của Malaysia lại kéo dài hơn và ít nhất là (03) năm tùy công ước. Ngoài ra, nhóm các cam kết chung này cũng điều chỉnh về các vấn đề khác như hợp tác giữa các nước thành viên của Hiệp định CPTPP trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; hay các nguyên tắc chung như đối xử quốc gia, minh bạch.

Thứ hai, nhóm các cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ các quyền SHTT. Nhóm này bao gồm các cam kết về tiêu chuẩn bảo hộ đối với phần lớn các loại tài sản sở hữu trí tuệ như nhãn hiệu, sáng chế, quyền tác giả và quyền liên quan, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý. Các tiêu chuẩn này dựa trên nhưng đa phần cao hơn so với tiêu chuẩn tương ứng của Hiệp định TRIPS. Tương tự như nhóm đầu tiên, các quốc gia thành viên sẽ được hưởng một lộ trình thực hiện khác nhau. Ví dụ, Việt Nam được hưởng lộ trình thực hiện các cam kết về tiêu chuẩn bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trung bình từ ba (03) cho đến năm (05) năm. Trong khi đó, Brunei được hưởng lộ trình thực hiện từ mười tám (18) tháng đến tối đa là bốn (04) năm [34].

Thứ ba, cùng với các tiêu chuẩn chung đối với các nhóm tài sản sở hữu trí tuệ, Hiệp định CPTPP còn bao gồm các cam kết riêng về một số loại sản phẩm SHTT đặc thù như nông hóa phẩm, dược phẩm. Ngoài ra, nhóm các cam kết riêng này còn hướng đến việc xử lý các vấn đề SHTT thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin như: tín hiệu vệ tinh, truyền hình kỹ thuật số, các công cụ bảo mật, trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ mạng Internet... Việt Nam được hưởng lộ trình thực hiện các cam kết này từ hai (02) năm đến mười (10) năm, tuỳ vào từng cam kết đối với các đối tượng cụ thể [34].

Nhóm cuối cùng liên quan tới việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể, nhóm này bao gồm những cam kết tăng cường mức độ hiệu quả thực thi và bảo hộ các quyền SHTT. Các cam kết này đồng thời cũng hướng tới việc xử lý nghiêm khắc hơn, có tính răn đe, ngăn ngừa tái phạm đối với các vi phạm quyền SHTT. Nguyên nhân là bởi các xâm phạm về quyền SHTT hiện nay diễn ra với quy mô ngày càng phức tạp, tinh vi, với các hình thức vi phạm khác nhau trong nhiều lĩnh vực như văn hóa nghệ thuật, khoa học công nghệ, hay các vi phạm trên những nền tảng số. Bên cạnh đó, hiệu quả thực thi và bảo hộ quyền SHTT của Hiệp định TRIPS và các Công ước về quyền SHTT do WIPO quản lý đã không đáp ứng được nhu cầu bảo hộ của các quốc gia phát triển. Đối với nhóm cam kết về thực thi các quyền sở hữu trí tuệ, Việt Nam có lộ trình từ hai (02) năm đến ba (03) năm để thực hiện tùy vào các biện pháp cụ thể [34]. Trong khi đó, Malaysia có lộ trình thực hiện các cam kết về thực thi quyền SHTT lâu hơn, cụ thể là các yêu cầu đặc biệt liên quan tới các biện pháp tại biên giới có lộ trình thực hiện là bốn (04) năm [34].

3.1.2 Quá trình thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương của Việt Nam

Tại Báo cáo số 522/BC-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ về thuyết minh Báo cáo về Hiệp định CPTPP gửi Quốc hội, theo đó đối với các văn bản luật được kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhưng chưa đưa được vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và năm 2019, bao gồm Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Kinh doanh bảo hiểm. Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018 [55] (Nghị quyết số 72/2018) về Phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan đã ban hành danh mục các luật cần phải sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết trong Hiệp định CPTPP tại Mục 2 Phụ lục 3, trong đó có Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ. Ngày 24 tháng 12 năm 2018, Văn phòng chính phủ có Công văn số 12477/VPCP- QHQ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về hoàn thiện kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTTP.

Triển khai nhiệm vụ soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tiến hành tổng kết đánh giá hiện trạng của một số chính sách đề nghị sửa đổi trong lĩnh vực SHTT tại Việt Nam. Sau khi tổng hợp các báo cáo và đánh giá, ngày 14 tháng 06 năm 2019, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật SHTT tại luật số 42/2019/QH14. Các sửa đổi này tập trung chủ yếu về hiệu lực pháp lý với bên thứ ba của hợp đồng sử dụng quyền sở hữu công nghiệp; căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất; và trách nhiệm thanh toán của nguyên đơn đối với bị đơn khi Tòa án xác định bị đơn không thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn.

Các sửa đổi trên chỉ mới đáp ứng một phần các yêu cầu của Hiệp định CPTPP nên ngày 16 tháng 06 năm 2022, Quốc hội tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT. Nội dung sửa đổi liên quan đến biện pháp công nghệ bảo vệ quyền và thông tin quản lý quyền để đảm bảo thực thi trong môi trường số; ngoại lệ quyền tác giả, quyền liên quan; bảo hộ nhãn hiệu âm thanh; chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu; cơ chế bảo đảm thông tin cho chủ bằng sáng chế thực thi quyền trong thủ tục cấp phép lưu hành thị trường đối với dược phẩm; nghĩa vụ bảo hộ dữ liệu bí mật trong đơn xin cấp phép nông hóa phẩm; cơ chế đền bù cho chủ sở hữu sáng chế vì sự chậm trễ trong việc cấp phép lưu hành dược phẩm; giả định về quyền tác giả, quyền liên quan; quyền, trách nhiệm của những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trên môi trường mạng Internet và mạng viễn thông; nghĩa vụ chủ động tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bị nghi ngờ là hàng giả mạo SHTT.

Trên cơ sở hoàn thiện thể chế đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP, thực tiễn bảo hộ quyền SHTT ngày càng minh chứng cho nghĩa vụ thực hiện các cam kết bảo hộ quyền SHTT của Việt Nam. Bên cạnh đó, thời gian qua Việt Nam cũng đã nỗ lực gia nhập các Điều ước quốc tế liên quan theo yêu cầu của Hiệp định CPTPP như Hiệp ước về Quyền tác giả của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước WCT); Hiệp ước về Biểu diễn và bản ghi âm của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước WWPT); Thoả ước La-hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp (Thoả ước La-hay); và Hiệp ước Budapest về sự công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh nhằm tiến hành các thủ tục về sáng chế (Hiệp ước Budapest).

3.2  Các nghĩa vụ thực hiện và thực trạng thực hiện các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương của Việt Nam

3.2.1 Thực trạng nội luật hóa và tổ chức thực hiện các cam kết của Việt Nam về quyền tác giả và quyền liên quan theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

Các cam kết về quyền tác giả (QTG), quyền liên quan (QLQ) của Hiệp định CPTPP được quy định tại Mục H và J – Chương 18 [34]. Theo đó, QTG bao gồm các định nghĩa áp dụng đối với người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm như: phát sóng, truyền đạt tới công chúng, định hình, người biểu diễn, bản ghi âm, nhà xuất bản ghi âm, và công bố [34]. QTG và QLQ được quy định rằng mỗi quốc gia thành viên của Hiệp định CPTPP phải dành các quyền của người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm cho người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm là công dân của quốc gia thành viên khác; cho cuộc biểu diễn hoặc bản ghi âm công bố lần đầu tiên hoặc định hình lần đầu tiên trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia thành viên khác [34]. Pháp luật Việt Nam cơ bản đã tương thích với những quy định trên, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều nội dung đặt ra yêu cầu nội luật hóa với Việt Nam.

Thứ nhất, Hiệp định CPTPP yêu cầu rằng tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất (gọi chung là “chủ sở hữu”) được độc quyền trong việc cho phép, không cho phép hoặc cấm sao chép [34], truyền đạt [34] và phân phối [34] tác phẩm, cuộc biểu diễn, hoặc bản ghi âm của mình đến công chúng theo bất kỳ hình thức hoặc cách thức nào, bằng hình phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (Luật SHTT 2022) quy định sao chép là “việc tạo ra bản sao của toàn bộ hoặc một phần tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào" [51]. Khoản 5 Điều 1 Luật SHTT 2022 quy định chủ sở hữu QTG được “độc quyền thực hiện hoặc cho phép” bên thứ ba sao chép, truyền đạt, và phân phối tác phẩm của mình đến công chúng [51]. Sửa đổi này phù hợp với Công ước Berne bởi tại khoản 1 điều 9 của Công ước chỉ điều chỉnh quyền cho phép, còn hoàn toàn không đề cập đến việc tác giả có thể cấm việc sao chép dưới bất kỳ hình thức nào hay không [14]. Đối với Hoa Kỳ, họ cũng chỉ trao cho chủ sở hữu quyền độc quyền về việc cho phép sao chép các tác phẩm được bảo hộ dưới dạng bản sao hoặc bản ghi âm [87].

Thứ hai, Hiệp định CPTPP quy định rằng quyền được bảo hộ của các chủ sở hữu đối với cùng một tác phẩm là ngang nhau, không có thứ tự ưu tiên [34]. Theo đó, nếu bên thứ ba muốn sử dụng tác phẩm thuộc quyền sở hữu của tác giả, người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm/ ghi hình tác phẩm đó thì phải xin phép và được sự đồng ý của tất cả các chủ thể này. Theo Luật SHTT 2022, cá nhân hoặc tổ chức muốn sử dụng tác phẩm bảo hộ QTG phải được sự cho phép và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu QTG [34]. Bên cạnh đó, khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền của người biểu diễn hoặc nhà sản xuất bản ghi âm/ ghi hình, thì bên thứ ba phải được sự cho phép và trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền đối với cuộc biểu diễn [34], hoặc chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình [34]. Những thay đổi này bắt buộc bên thứ ba muốn sử dụng tác phẩm được bảo hộ phải được sự cho phép của các chủ thể quyền thay vì chỉ trả thù lao [48] hoặc các quyền lợi vật chất khác [48] như trước kia.

Thứ ba, Hiệp định CPPTPP kéo dài thời gian bảo hộ QTG và QLQ thêm 20 năm so với pháp luật hiện hành của Việt Nam [34]. Nếu chủ thể quyền không phải cá nhân, gia hạn thêm hai mươi (20) năm tức là thời gian được bảo hộ tăng lên tới 40% so với trước đây. Việt Nam có năm (05) năm để nội luật hóa cam kết này từ ngày CPTPP có hiệu lực nên Luật SHTT 2022 vẫn chưa điều chỉnh các cam kết trên. Cam kết này mang đến nhiều lợi ích cho các các tác giả và doanh nghiệp chủ sở hữu quyền bởi họ có thêm thời gian để khai thác lợi ích về kinh tế và danh tiếng. Tuy nhiên, quy định này phần nào sẽ ảnh hưởng đến những lợi ích cộng đồng khi việc được tiếp cận miễn phí các tác phẩm này sẽ phải kéo dài thêm.

Thứ tư, CPTPP đưa ra các cam kết nhằm bảo vệ QTG và QLQ thông qua việc ngăn chặn các hành vi làm công cụ cho việc xâm phạm các quyền này. Các hành vi phá, dỡ, vô hiệu hóa các công nghệ bảo vệ (Technological Protection Measures “TPM”) [34] và hành vi xâm phạm thông tin quản lý quyền (Rights Management Information “RMI”) [34] nhằm mục đích thương mại hoặc thu lợi sẽ bị xử lý hình sự và bồi thường thiệt hại. Luật SHTT 2022 đã định nghĩa “Biện pháp công nghệ bảo vệ quyền” và “Thông tin quản lý quyền” [51], bổ sung quy định về hành vi xâm phạm QTG và QLQ bao gồm các hành vi phá dỡ, vô hiệu hóa các công nghệ bảo vệ [51], và xâm phạm thông tin quản lý quyền [51]. Các quy định này đã tương thích với yêu cầu của CPTPP, thể hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia các FTAs thế hệ mới nhằm bắt kịp với sự phát triển của công nghệ, nâng cao hiệu quả bảo hộ QTG trong môi trường Internet. Điều này tạo động lực sáng tạo và tối đa hóa việc khai thác lợi ích từ sản phẩm của các chủ thể quyền.

Thứ năm, Hiệp định CPTPP đặt ra yêu cầu đối với các quốc gia thành viên về việc phải đảm bảo việc cân đối giữa quyền của chủ sở hữu với các mục tiêu công cộng khác. Trong từng trường hợp cụ thể, các ngoại lệ này sẽ được áp dụng tùy theo cách thức và điều kiện cho phép [34]. Ví dụ, một phần hoặc toàn bộ tác phẩm được sử dụng nhằm phân tích, bình luận, báo cáo, giảng dạy, nghiên cứu, hoặc hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận tác phẩm thuận lợi hơn. Luật SHTT 2022 đã liệt kê cụ thể những ngoại lệ không phải xin phép và không phải trả tiền bản quyền cho tác giả [51], người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm/ ghi hình [51]. Những ngoại lệ này cơ bản đáp ứng yêu cầu đặt ra của CPTPP và hướng đến việc cân bằng lợi ích giữa cộng đồng và chủ thể quyền.

Những thay đổi của Luật SHTT 2022 mới chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu nội luật hóa các cam kết về QTG và QLQ theo Hiệp định CPTPP. Cụ thể, cam kết về việc không có thứ tự ưu tiên trong bảo hộ QTG và QLQ chưa được quy định. Luật SHTT 2022 cũng chưa quy định việc chủ sở hữu được độc quyền trong việc cấm sao chép, truyền đạt tới công chúng, phân phối và phát sóng các tác phẩm của mình. Việt Nam cũng chưa nội luật hóa cam kết về gia tăng thời hạn bảo hộ. Bên cạnh đó, các cam kết đã được nội luật hóa mới chỉ dừng lại ở các quy định chung, mà chưa có các hướng dẫn cụ thể tại các văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư. Điều này sẽ gây khó khăn cho cả cơ quan chức năng và chủ sở hữu quyền SHTT khi có tranh chấp xảy ra bởi cách hiểu có thể khác nhau khi chưa được hướng dẫn cụ thể, chi tiết.

Vì vậy, cần nhanh chóng hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm đáp ứng các cam kết của Hiệp định CPTPP cũng như nhu cầu thực tế của cơ quan chức năng và chủ thể quyền. Tuy nhiên, việc đáp ứng một phần yêu cầu nội luật hóa các cam kết về quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP có thể tạm chấp nhận được bởi nó phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay cũng như lộ trình cam kết của Việt Nam. Việt Nam cần có sự chuẩn bị kĩ nhằm đảm bảo rằng Nhà nước và các chủ thể quyền có đủ thời gian, nguồn lực để kịp thích ứng.

Nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các cam kết về QTG và QLQ theo CPTPP, Việt Nam cần phải đảm bảo thực hiện những mục tiêu sau: (i) Thực hiện cam kết về QTG và QLQ; (ii) Thiết lập một hệ thống bao gồm các thiết chế để quản lý và tổ chức thực thi QTG và QLQ theo CPTPP; (iii) Báo cáo tiến độ thực hiện và hợp tác với các quốc gia thành viên của Hiệp định. Để thực hiện mục tiêu đầu tiên thì Nhà nước, tổ chức, và người dân phải đảm bảo thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của mình. Nghị quyết số 72/2018 và các văn kiện liên quan đã ban hành danh mục các luật cần phải sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết trong Hiệp định CPTPP tại Mục 2, Phụ lục 3.

Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm phê duyệt và chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên quan triển khai kế hoạch thực hiện cam kết về quyền tác giả, quyền liên quan theo CPTPP; phát triển nguồn nhân lực để bảo đảm tận dụng cơ hội, lợi ích từ các cam kết này. Đồng thời lên kế hoạch, triển khai hiệu quả các biện pháp phòng ngừa và xử lý những tác động bất lợi có thể phát sinh trong quá trình thực hiện cam kết về quyền tác giả, quyền liên quan theo CPTPP; đảm bảo rằng các cam kết này được thông tin, tuyên truyền kịp thời, đầy đủ nội dung nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của hệ thống chính trị, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân về việc Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP [54]. Cuối cùng, Chính phủ có nhiệm vụ chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan hoàn thành thủ tục phê chuẩn CPTPP và thông báo thời điểm có hiệu lực đối với Việt Nam [54].

Theo đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL) thực hiện rà soát các dự án luật tại Phụ lục 3 và các văn bản pháp luật khác liên quan đến QTG và QLQ để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới kịp thời, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đúng lộ trình thực hiện các cam kết theo Hiệp định CPTPP [54]. Các nghĩa vụ phải thực hiện ngay khi CPTPP có hiệu lực đã được nội luật hóa tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ [50]. Bộ VHTTDL chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về QTG và QLQ [64] và soạn thảo tờ trình phê duyệt để tham gia hai điều ước gồm: Hiệp ước về Quyền tác giả của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước WCT) và Hiệp ước về Biểu diễn và bản ghi âm của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước WPPT) [65]. Năm 2021, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp ước WCT sau khi hoàn thiện các thủ tục cần thiết qua đó giúp các chủ thể quyền được bảo hộ nhanh chóng trên phạm vi rộng hơn đồng thời thể hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia CPTPP .

Đề án nhằm tăng cường năng lực quản lý và thực thi có hiệu quả pháp luật bảo hộ QTG và QLQ với những mục tiêu cụ thể trong giai đoạn 2020- 2025 [66] đã được phê duyệt. Trong giai đoạn này, số lượng cán bộ quản lý và thực thi pháp luật về QTG và QLQ từ Trung ương đến địa phương được tham gia chương trình tập huấn nghiệp vụ phải đạt 100% [66]. Số lượt các chủ thể quyền tham dự các lớp tập huấn về QTG và QLQ mỗi năm là khoảng 700 [66]. Đồng thời, tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có cán bộ kiêm nhiệm hoặc chuyên trách quản lý và thực thi pháp luật về QTG và QLQ [66]. Ngoài ra, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đối với hoạt động đăng ký QTG và QLQ [66]. Thực tế, đã có rất nhiều tỉnh, thành phố đã thực hiện những yêu cầu nêu trên với các kết quả tích cực như: Hải Dương [39]; Bắc Kạn [16]; Ninh Thuận ….

Theo chiến lược về SHTT đến năm 2030, Chính phủ đặt mục tiêu phát triển được các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên QTG và QLQ nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm sáng tạo đa dạng, chất lượng cao, có thể đóng góp khoảng 7% GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội [64]. Cụ thể, chính sách, pháp luật về SHTT cần nhanh chóng hoàn thiện để đảm bảo hệ thống các tổ chức quản lý tập thể QTG và QLQ hoạt động có hiệu quả, minh bạch, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể sáng tạo, khuyến khích hoạt động sáng tạo [64]. Mục tiêu thứ hai đó là hỗ trợ, khuyến khích nhằm đẩy mạnh việc khai thác, sử dụng các sản phẩm sáng tạo là đối tượng của QTG và QLQ đã hết thời hạn bảo hộ hoặc thuộc về Nhà nước [64].

Mục tiêu thứ ba là tăng cường năng lực, đầu tư cơ sở vật chất để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể QTG và QLQ, qua đó đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội, bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên liên quan [64]. Chiến lược trên đã thể hiện nỗ lực của Việt Nam nhằm thực hiện các cam kết về QTG và QLQ theo Hiệp định CPTPP. Nửa đầu năm 2019, Cục bản quyền tác giả đã thụ lý, cấp mới 3.410 giấy chứng nhận đăng ký QTG và QLQ [2]. Bên cạnh đó, với sự ra đời của 5 tổ chức nhằm thực hiện việc đàm phán cấp phép sử dụng, thu phí và phân phối lợi nhuận cho các chủ thể đã ủy thác quyền phần nào giải quyết được vấn đề yếu kém trong việc tự quản lý và khai thác quyền của chủ sở hữu. Năm 2020, Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC) có 276 tác giả là thành viên ký hợp đồng ủy quyền, nâng tổng số thành viên lên là 4540 tác giả. Năm 2020, mặc dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 nhưng VCPMC vẫn thu về hơn 150 tỉ đồng từ việc sử dụng QTG âm nhạc [67].

Những bước đầu thực hiện cam kết của Việt Nam đã góp phần thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, tác giả thực sự được tôn trọng các quyền về mặt tinh thần, kinh tế, và các lợi ích khác từ việc khai thác tác phẩm. Bảo hộ quyền tác giả không chỉ đảm bảo quyền tự do sáng tạo của cá nhân, tổ chức mà còn đảm bảo quyền bình đẳng, tự định đoạt của các chủ thể. Sự tự do sáng tạo của cá nhân được khuyến khích, tôn trọng và đảm bảo trên cơ sở được sự bảo hộ của Nhà nước. Bên cạnh việc tạo ra hành lang pháp lý cho việc bảo hộ, thì việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức pháp luật cũng rất quan trọng. Nhận thức đầy đủ của người dân, doanh nghiệp về quyền tác giả, quyền liên quan là một yếu tố cốt lõi trong việc bảo hộ bởi nó không chỉ giúp tác giả yên tâm sáng tạo mà còn đem lại cho họ những lợi ích khác khi khai thác quyền [73]. Chính phủ, các cơ quan truyền thông đã vào cuộc rất tích cực trong việc tuyền truyền bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan từ đó đã có những chuyển biến rất tích cực đến từ người dân, doanh nghiệp khi thói quen tôn trọng quyền của họ đã và đang dần hình thành.

Tuy nhiên, số liệu trên chưa phản ánh hết thực trạng bảo hộ hiện nay bởi vì đó chỉ là một phần rất nhỏ trong hàng chục nghìn tác phẩm thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật [62]. Đối với cá nhân, đặc biệt là tác giả - người trực tiếp sáng tạo, họ vẫn còn xem nhẹ vấn đề bản quyền vì ngại kiện tụng [62]. Khi có tranh chấp, tác giả phải tốn rất nhiều thời gian, công sức để thu thập chứng cứ như thời điểm sáng tạo, trình diễn, công bố tác phẩm hoặc xác định thời điểm bản viết tay ra đời. Điều này đã dẫn đến tâm lý chán nản, dễ buông xuôi, tạo điều kiện cho các xâm phạm diễn ra ngày càng nhiều, ngang nhiên, đồng thời làm cho nhiều vụ việc trở nên phức tạp, khó giải quyết [62]. Trong khi đó chỉ cần nắm rõ quy định của pháp luật và ý thức chủ động đăng ký bảo hộ để sử dụng làm bằng chứng cho việc xác lập quyền của mình, thì tác giả hoàn toàn có thể tránh khỏi tranh chấp, kiện tụng. Việc vẫn còn tồn tại tâm lý “xài chùa” [62] đã tạo động lực phát triển cho các vi phạm QTG và QLQ.

Hiện nay, việc đưa các tác phẩm văn học, nghệ thuật, điện ảnh lên nền tảng số đã tạo ra một thị trường mới đầy hấp dẫn, đem lại doanh thu khủng nên thu hút rất nhiều sự tham gia của các công ty công nghệ [30]. Họ sẵn sàng đưa các tác phẩm văn học, nghệ thuật, điện ảnh trái phép hoặc không có bản quyền lên mạng để thu tiền thông qua lượt xem hoặc lượt quảng cáo [78]. Từ đó dẫn đến tình trạng xâm phạm QTG và QLQ trong môi trường Internet ngày càng nhiều với tính chất vô cùng phức tạp [30]. Hầu hết khi bị phát hiện, các đơn vị cung cấp nền tảng kinh doanh trái phép chỉ xin lỗi, gỡ các sản phẩm đã đưa lên hoặc đền bù mang tính hình thức trong khi tổn thất tinh thần thậm chí còn lớn hơn thiệt hại về kinh tế [63]. Hơn nữa, để đạt được những kết quả nêu trên thì chủ thể QTG và QLQ bị xâm phạm sẽ phải trải qua nhiều thủ tục kiện tụng phức tạp, tốn thời gian, và công sức [30]. Nhìn chung, việc thực hiện các cam kết về QTG và QLQ theo Hiệp định CPTPP đã có những chuyển biến tích cực từ Nhà nước, cá nhân, và tổ chức. Tuy vậy, rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết triệt để nhằm tuân thủ đầy đủ các cam kết về QTG và QLQ theo Hiệp định CPTPP.

Đối với nhiệm vụ thứ hai, Bộ Công Thương là đại diện chính (cùng một số bộ ban nghành liên quan) của Việt Nam có nhiệm vụ tham gia tại các kì họp Hội đồng Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Hội đồng). Hội đồng bao gồm các đại diện Chính phủ mỗi Bên ở cấp Bộ trưởng hoặc quan chức cấp cao [34]. Hội đồng được thành lập nhằm đảm bảo việc thực thi Hiệp định bằng cách thiết lập một hệ thống bao gồm các thiết chế để quản lý và tổ chức thực hiện CPTPP [34] bao gồm các quyền SHTT. Cụ thể, Hội đồng có thể xây dựng các thỏa thuận để thực hiện CPTPP; giải quyết các tranh chấp phát sinh khi áp dụng CPTPP; hoặc đưa ra các giải thích về quy định của CPTPP [34]. Mỗi thành viên sẽ có trách nhiệm điều hành cuộc họp của Hội đồng theo thứ tự [34]. Trải qua sáu phiên họp, Hội đồng khẳng định quyết tâm thực thi đầy đủ Hiệp định CPTPP một cách đầy đủ và đúng đắn, nhằm đạt được kết quả như các thành viên đã đàm phán. Hội đồng cũng tiếp tục gửi tín hiệu mạnh mẽ về việc ủng hộ thương mại tự do; thiết lập các quy tắc tiêu chuẩn cao và cân bằng phù hợp với thế kỉ XXI. Việt Nam được đánh giá là một trong những thành viên đã tích cực khi đóng góp rất nhiều sáng kiến nhằm đẩy nhanh việc thực thi đầy đủ Hiệp định CPTPP trong đó có nội dung về SHTT.

Nhiệm vụ thứ ba của Việt Nam đó là báo cáo tiến độ thực hiện và hợp tác với các quốc gia thành viên của Hiệp định CPTPP. Cụ thể, kể từ khi Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực, Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều hoạt động như xây dựng phương án, báo cáo Ban hội nhập quốc tế về kinh tế (Bộ VHTTDL) về việc triển khai thực hiện các cam kết về QTG và QLQ trong Hiệp định CPTPP, cùng với việc tham gia nhiều chương trình hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế về vấn đề bảo vệ QTG và QLQ [31]. Cụ thể, tháng 8 năm 2019, Cục bản quyền tác giả Việt Nam (COV) đã phối hợp cùng với Hiệp hội phân phối nội dung ở nước ngoài của Nhật Bản (CODA) tổ chức “Hội thảo về Thực thi quyền tác giả, quyền liên quan tại Việt Nam” tại Hà Nội. Tại hội thảo, các chuyên gia đã đánh giá và thảo luận về các quy định pháp luật và thực trạng bảo hộ QTG và QLQ tại Việt Nam; các biện pháp chống vi phạm bản quyền trên Internet tại Nhật Bản; các biện pháp CODA áp dụng nhằm ngăn chặn xâm phạm bản quyền; và các phương pháp mà CODA thực hiện nhằm phân phối nội dung có bản quyền được rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn. Ngoài ra, Nhật Bản cũng chia sẻ kinh nghiệm về các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý, thực thi QTG và QLQ ở Việt Nam trong thời gian tới.

Năm 2020, COV tiếp tục tổ chức cuộc họp trực tuyến với CODA, với mục tiêu tổ chức hội thảo, sự kiện trực tuyến về thực thi QTG và QLQ trên môi trường số nhằm chia sẻ kinh nghiệm và nâng cao nhận thức về các quyền này [32]. Ngoài ra, hai bên cũng thống nhất việc cùng phối hợp nhằm xây dựng một bộ tài liệu tuyên truyền theo khuôn khổ của Bản ghi nhớ đã ký giữa Bộ VHTTDL và Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản với mục tiêu là “nhằm thiết lập một khuôn khổ chung về hợp tác song phương giữa Hai Bên về quyền tác giả thông qua trao đổi thông tin, những kinh nghiệm bổ ích và tiến hành các hoạt động nâng cao năng lực” [32]. Việc tích cực tham gia các diễn đàn, hội thảo quốc tế đã thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết về quyền SHTT theo CPTPP.

3.2.2 Thực trạng nội luật hóa và tổ chức thực hiện các cam kết của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

Các cam kết về quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại mục C, E, F, và G của chương 18 Hiệp định CPTPPP. Các cam kết này bao gồm: (i) Nhãn hiệu; (ii) Chỉ dẫn địa lý; (iii) Sáng chế và Dữ liệu bí mật hoặc Các dữ liệu khác; (iv) và Kiểu dáng công nghiệp [34]. Một số nội dung trong các cam kết trên đã tương thích với pháp luật Việt Nam nên không cần nội luật hóa. Thứ nhất, thời gian bảo hộ đối với nhãn hiệu tối thiểu là 10 năm [34] và có thể được gia hạn nhiều lần [48]. Thứ hai, thành viên CPTPP được phép lựa chọn bảo hộ chỉ dẫn địa lý (CDĐL) theo cơ chế riêng hoặc theo cơ chế chung với nhãn hiệu [34]. Cơ chế này phù hợp với Việt Nam khi hiện tại Việt Nam đang đồng thời bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Thứ ba, các quy định về phạm vi các đối tượng có thể được bảo hộ [34] cũng như các ngoại lệ đối với quyền của chủ sáng chế [34] tương tự các quy định đã có trong Hiệp định TRIPS, vốn đã được đưa vào pháp luật Việt Nam. Nhìn chung các cam kết của Hiệp định CPTPP dựa trên và trong nhiều trường hợp là cao hơn so với tiêu chuẩn tương ứng của Hiệp định TRIPS. Đối với Việt Nam, các tiêu chuẩn này cũng cao hơn quy định hiện tại của pháp luật về SHCN.

Cam kết về nhãn hiệu của Hiệp định CPTPP cần nội luật hóa bao gồm: Đối tượng được bảo hộ; nhãn hiệu nổi tiếng; quyền của chủ sở hữu; và cải cách thủ tục hành chính. Bên cạnh các đối tượng truyền thống có thể nhìn thấy được mà pháp luật Việt Nam đang bảo hộ như chữ, ký hiện, từ ngữ, và hình ảnh thì Hiệp định CPTPP mở rộng bảo hộ đối với những đối tượng phi truyền thống như âm thanh và mùi hương [34]. Điều này xuất phát từ nhu cầu kinh doanh thực tế cũng như xu hướng phát triển của pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu trên thế giới. Luật SHTT 2022 quy định nhãn hiệu được bảo hộ nếu là dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa [51]. Luật SHTT 2022 cũng sửa đổi, bổ sung Điều 73 [51], Điều 74 [51] theo hướng loại trừ các dấu hiệu không nhìn thấy được không được coi là nhãn hiệu, và các trường hợp nhãn hiệu âm thanh bị coi là không có khả năng phân biệt. Mặc dù đã đáp ứng được yêu cầu nội luật hóa, tuy nhiên khi công nhận âm thanh là một loại nhãn hiệu thì việc đánh giá, công nhận nhãn hiệu này là một thách thức lớn với cơ quan chức năng. Bởi lẽ cần xác định rõ loại âm thanh như thế nào mới đủ tiêu chuẩn điều kiện đăng ký, các âm thanh đơn giản như tiếng chuông, tiếng chim hót… có được bảo hộ là nhãn hiệu hay không.

Khi xem xét bảo hộ đối với một nhãn hiệu nổi tiếng theo Hiệp định CPTPP, Việt Nam không được dựa trên tiêu chí số lượng các quốc gia đã bảo hộ nhãn hiệu, đã công nhận nhãn hiệu nổi tiếng đó hoặc đã nằm trong danh mục nhãn hiệu nổi tiếng. Câu mở đầu của Điều 75 được sửa rằng: “Việc xem xét, đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng được lựa chọn từ một số hoặc tất cả các tiêu chí sau đây” [51]. Thay đổi này chưa đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP bởi hai tiêu chí về “Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu” và “Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng” vẫn tồn tại. Điều này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể khi xác định nhãn hiệu nổi tiếng bởi họ sẽ không nắm được trong trường hợp nào một số tiêu chí được áp dụng hoặc khi nào tất cả các tiêu chí được áp dụng. Vì vậy, khoản 6 và 7 Điều 75 [48] về tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng cần được loại bỏ; đồng thời cần bổ sung hướng dẫn cụ thể khi áp dụng các tiêu chí.

Theo Hiệp định CPTPP, chủ sở hữu của nhãn hiệu được độc quyền ngăn cản các chủ thể khác sử dụng các dấu hiệu (bao gồm chỉ dẫn địa lý) trùng hoặc tương tự cho các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc gần với loại hàng hóa, dịch vụ đã đăng ký nhãn hiệu của mình nếu việc sử dụng này có thể gây ra nhầm lẫn [34]. Tuy vậy, các chủ thể khác vẫn được phép sử dụng một số thuật ngữ mô tả có trong nhãn hiệu đã được bảo hộ nếu việc sử dụng đó là ngay tình, và có tính đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu và các bên thứ ba [34]. Luật SHTT 2022 mới chỉ dừng lại ở việc quy định nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của chủ thể khác được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Thay đổi này dường như chưa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định CPTPP, tuy nhiên điều này là cần thiết bởi việc có được độc quyền trên sẽ dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền của chủ sở hữu. Hơn nữa, không nhiều chủ sở hữu nhãn hiệu đủ khả năng tự đánh giá các dấu hiệu trùng hoặc tương tự có thể gây ra nhầm lẫn. Vì vậy, nội luật hóa điều 18.20 của Hiệp định CPTPP cần làm từng bước để đánh giá hiệu quả thực tiễn áp dụng của pháp luật.

Hiệp định CPTPP yêu cầu các quốc gia thành viên phải áp dụng các biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo thủ tục hành chính nhanh gọn, chính xác, và minh bạch khi đăng ký, gia hạn nhãn hiệu [34]. Hệ thống đăng ký phải đảm bảo cơ hội phản hồi của người nộp đơn cũng như cơ hội phản đối của các bên thứ ba, đồng thời Hiệp định CPTPP cũng khuyến khích việc áp dụng công nghệ thông qua việc sử dụng hệ thống đăng ký điện tử để minh bạch hóa các quy trình này [34]. Thực tế, hệ thống nộp đơn điện tử trực tuyến đối với các đối tượng SHCN đã hoạt động từ năm 2017 theo quy định của Nghị quyết số 36a/NQ-CP năm 2015 [53]. Hơn nữa, Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới cũng đang tích cực hỗ trợ Cục SHTT xây dựng một “Thư viện số về SHCN” trên nền tảng WIPO Publish [17]. Thư viện này giúp các chủ thể dễ dàng tra cứu đầy đủ các thông tin về các đối tượng SHCN đã được công bố. Mặc dù hệ thống điện tử đã tuân thủ yêu cầu của Hiệp định CPTPP nhưng nó vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp nhằm đáp ứng yêu cầu về nộp đơn đăng ký, gia hạn và tra cứu thông tin. Bên cạnh đó, đơn đăng ký xác lập quyền SHCN có thể dưới hình thức văn bản dạng giấy hoặc nộp trực tuyến. Thay đổi này là phù hợp, thuận tiện hơn cho chủ sở hữu trong việc đăng ký, gia hạn nhãn hiệu cũng như tương thích với cam kết của Hiệp định CPTPP.

Cải cách thủ tục thứ hai đó là việc công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu trước bên thứ ba mà không dựa vào việc có hay không đăng ký tại Cục SHTT. Nhãn hiệu là loại tài sản SHTT rất dễ chuyển nhượng nhưng gặp rất nhiều khó khăn trong việc bảo hộ và định giá. Khi kiểm soát giao dịch thông qua cơ chế đăng ký bảo hộ, Việt Nam có thể đánh mất lợi thế cạnh tranh nếu các nước khác không quy định về việc đăng ký chuyển nhượng nhãn hiệu. Ngược lại, việc không kiểm soát có thể dẫn đến tình trạng các bên đẩy giá giao dịch lên cao nhằm chuyển vốn ra nước ngoài hoặc trốn thuế. Trong khi đó, Luật SHTT quy định việc chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN được hiểu là việc cho phép sử dụng đối tượng SHCN và việc đăng ký sẽ có giá trị đối với bên thứ ba [51]. Có nghĩa việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu giữa các cá nhân, tổ chức mà không đăng ký sẽ không có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba [51] khi tranh chấp xảy ra. Vì vậy, Điều 136 và Điều 148 của Luật SHTT được sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu nội luật hóa của Điều 18.27 Hiệp định CPTPP.

Sửa đổi của khoản 2 điều 136 luật SHTT [51] công nhận việc sử dụng nhãn hiệu của người nhận chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cũng chính là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu. Chủ sở hữu nhãn hiệu phải sử dụng nhãn hiệu mà mình được bảo hộ không gián đoạn quá năm (05) năm. Ngược lại, nhằm ngăn chặn tình trạng một số chủ thể chỉ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu để chuyển nhượng thì pháp luật cho phép bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức khác được yêu cầu Cục SHTT đình chỉ hiệu lực văn bằng bảo hộ. Thay đổi này phù hợp với Điều 95 Luật SHTT [51], đồng thời thống nhất với khoản 1 Điều 143 Luật SHTT [51] về chuyển quyền sử dụng độc quyền đối với nhãn hiệu mà không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Điều này cũng phù hợp với tập quán của hầu hết các nước khác khi mục tiêu chính của việc bảo hộ nhãn hiệu đó chính là bảo hộ uy tín sản phẩm và nhãn hiệu của các chủ thể.

Như vậy, các hợp đồng về việc chuyển giao nhãn hiệu giữa các bên không bắt buộc phải đăng ký tại Cục SHTT và có giá trị pháp lý đối với tất cả các bên. Nó không những thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong việc giao dịch chuyển giao nhãn hiệu mà còn giúp đơn giản hóa các thủ tục hành chính.

Khi đăng ký không còn là một thủ tục bắt buộc, các chủ thể sẽ chủ động trong việc kiểm soát nội dung hợp đồng và bằng chứng về người được chuyển giao quyền sử dụng nhằm đảm bảo việc khai thác nhãn hiệu. Có thể thấy, sửa đổi, bổ sung của Điều 136 và Điều 148 Luật SHTT đã phù hợp với yêu cầu của Hiệp định CPTPP về việc các quốc gia thành viên không được yêu cầu đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu (li-xăng) [34].

Cuối cùng, đối với Tên miền cao cấp mã quốc gia (ccTLD), các quốc gia thành viên của Hiệp định CPTPP phải quy định cơ chế giải quyết tranh chấp tên miền dựa theo nguyên tắc của Tổ chức quản lý tên miền quốc tế (ICANN) hoặc tương tự [34]. Đồng thời, mỗi nước phải có biện pháp xử lý các chủ thể đăng ký hoặc nắm giữ tên miền tương tự hoặc gần giống đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu thương mại với mục đích thu lợi bất chính [34]. Luật SHTT 2022 bổ sung cụm từ “dụng ý xấu” tại khoản 1.d Điều 130 Luật SHTT và dường như thay đổi trên có sự tham khảo từ quy định của Chính sách giải quyết tên miền thống nhất (UDRP) của ICANN, bởi lẽ yếu tố "dụng ý xấu" là một trong bốn điều kiện để ICANN xem xét hủy một tên miền [12]. Thay đổi này sẽ đặt nền móng cho việc áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp tên miền dựa theo quy định của ICANN. Tuy nhiên, cần có hướng dẫn cụ thể hơn tại các văn bản dưới luật để làm rõ yếu tố “dụng ý xấu” nhằm tránh tình trạng áp dụng sai hoặc chồng chéo với các quy định khác.

Hiệp định CPTPP đặt ra một loạt chuẩn mực mới về bảo hộ chỉ dẫn địa lý [34] gồm: (i) Cải cách thủ tục hành chính ; (ii) Căn cứ để phản đối hoặc từ chối bảo hộ đối với một chỉ dẫn địa lý; (iii) Thời điểm bắt đầu bảo hộ không được sớm hơn ngày nộp đơn đăng ký hoặc ngày được đăng ký; (iv) Tiêu chí về việc công nhận và bảo vệ chỉ dẫn địa lý theo các điều ước quốc tế.

Đối với các thủ tục hành chính về bảo hộ và công nhận chỉ dẫn địa lý theo Hiệp định CPTPP, khi xảy ra trường hợp trùng hoặc tương tự giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý mà nhãn hiệu đó lại được đăng ký bảo hộ trước thì chỉ dẫn địa lý đó vẫn được bảo hộ nhưng quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ được ưu tiên hơn. Cụ thể, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền cấm việc sử dụng chỉ dẫn địa lý nếu việc sử dụng có thể gây nhầm lẫn về nguồn gốc thương mại của sản phẩm. Ngoại lệ được áp dụng khi chỉ dẫn địa lý chỉ có ý nghĩa mô tả xuất xứ của hàng hóa, vẫn được phép sử dụng song song cùng nhãn hiệu đó [34]. Tuy nhiên, chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ nếu có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu về nguồn gốc thương mại của sản phẩm trừ khi việc sử dụng chỉ dẫn địa lý thuộc trường hợp ngoại lệ đối với quyền của nhãn hiệu [34]. Khoản 3 Điều 80 Luật SHTT [51] thay cụm từ “sẽ gây nhầm lẫn” thành “có khả năng gây nhầm lẫn”, điều này đồng nghĩa chỉ cần chỉ dẫn địa lý có khả năng gây nhầm lẫn sẽ không được bảo hộ. Tiêu chuẩn bảo hộ đã cao hơn nhưng đồng thời dễ gây ra việc lạm dụng tiêu chuẩn này. Chính vì vậy, cần có các hướng dẫn chi tiết nhằm làm rõ các tiêu chí để đánh giá khi nào thì một chỉ dẫn địa lý có khả năng gây nhầm lẫn.

Khoản 1 Điều 80 Luật SHTT bổ sung quy định việc đánh giá một thuật ngữ phải dựa trên cách hiểu của người tiêu dùng tại Việt Nam. Đối với chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ đa thành phần mà có thành phần là tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam, việc đánh giá thành phần là tên gọi chung cũng được áp dụng tương tự như thuật ngữ là tên gọi chung tại Khoản 1 Điều 80 nên đã tương thích. Mặc dù hiện nay chưa có quy định bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự nhưng Việt Nam vẫn bảo hộ bản dịch, phiên âm hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý sang Tiếng Việt hoặc ngữ hệ Latin. Nói cách khác, đơn đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý dạng này vẫn được xử lý như đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý thông thường. Vì vậy, chỉ cần đưa nội dung này vào Quy chế hướng dẫn thẩm định là đủ để đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Điều 120a [51] luật SHTT bổ sung việc công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế, trong đó xác định việc công bố, xử lý ý kiến của người thứ ba, đánh giá điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý trong đề nghị quốc tế được thực hiện theo các quy định tương ứng tại Luật SHTT. Nhìn chung, các thay đổi của luật SHTT về chỉ dẫn địa lý đã đáp ứng được các yêu cầu về nội luật hóa của Hiệp định CPTPP.

Sáng chế và Dữ liệu bí mật hoặc Các dữ liệu khác được quy định tại Mục F Chương 18 của Hiệp định CPTPP. Đối với sáng chế, các cam kết cần nội luật hóa bao gồm: (i) Tiêu chí bảo hộ; (ii) Thủ tục đăng ký sáng chế. Về tiêu chí bảo hộ, bất kỳ sáng tạo, dù là sản phẩm hay quy trình, trong tất cả các lĩnh vực, nếu mới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp [34] thì đều có thể được bảo hộ dưới dạng sáng chế. Thời gian ân hạn kéo dài 12 tháng đối với việc người nộp đơn hoặc bên thứ ba có được thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp từ người nộp đơn để kiểm tra trong các bước về tính mới và sáng tạo của sáng chế được cấp bằng sáng chế [34]. Điều 60 luật SHTT được sửa đổi rằng sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được người có quyền đăng ký hoặc người có được thông tin về sáng chế một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người đó bộc lộ công khai với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp tại Việt Nam trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày bộc lộ sáng chế [51]. Thời gian ân hạn kéo dài cho phép người nộp đơn sáng chế có thêm thời gian để cân nhắc các lợi ích của đăng ký và hoàn thiện hồ sơ đăng ký sáng chế. Quy định này rất có lợi cho các nhà nghiên cứu bởi trên thực tế, rất nhiều trong số họ vô tình làm mất đi tính mới của sáng chế khi vội công bố kết quả nghiên cứu của mình trên các tạp chí quốc tế danh tiếng ngay sau khi hoàn thành quá trình nghiên cứu.

Ngoài ra, sáng chế không mất tính mới nếu được bộc lộ trong đơn đăng ký SHCN hoặc văn bằng bảo hộ SHCN do cơ quan quản lý nhà nước về SHCN công bố trường hợp việc công bố không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc đơn do người không có quyền đăng ký nộp [51]. Luật SHTT cũng đã quy định trình độ sáng tạo của sáng chế được xác định bằng các phân loại sáng chế và giải pháp kỹ thuật [51]. Thay đổi này đã đáp ứng toàn bộ yêu cầu đặt ra của Điều 18.38 Hiệp định CPTPP. Đối với tiêu chí “Ai tới trước được cấp trước - First come first serve” [34] của Hiệp định CPTPP, Việt Nam đã quy định tại điều 90 và 91 luật SHTT. Đối với các tiêu chí còn lại, Việt Nam cần quy định bổ sung về việc “công bố công khai các đơn đăng ký bảo hộ trong vòng 18 tháng kể từ ngày nộp đơn” hay căn cứ để “hủy, rút lại hoặc vô hiệu một bằng sáng chế đã cấp phải đồng thời là các căn cứ để từ chối cấp bằng sáng chế” [34]. Các tiêu chí này không làm thay đổi đáng kể pháp luật hiện nay và chỉ nhằm hỗ trợ minh bạch hóa thông tin về đăng ký sáng chế.

Liên quan đến Dữ liệu bí mật hoặc Các dữ liệu khác, Hiệp định CPTPP đã đưa ra các cam kết liên quan đến nông hóa phẩm [34] và dược phẩm [34]. Đối với nông hóa phẩm, khi xin Giấy phép lưu hành cho một nông hóa phẩm mới, chủ sở hữu phải phải cung cấp các kết quả thử nghiệm hoặc dữ liệu khác chưa công bố về mức độ an toàn và hiệu quả của nông hóa phẩm đó cho Cơ quan cấp phép. Từ đó, Cơ quan cấp phép sẽ không cho phép chủ thể khác lưu hành cùng sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự trong ít nhất là 10 năm trừ khi được chủ sở hữu nông hóa phẩm đó đồng ý [34]. Quy định này cũng áp dụng trong trường hợp cấp phép lưu hành dựa trên việc nộp bằng chứng về việc đã được cấp phép lưu hành tại nước ngoài, với thời hạn bảo hộ là 10 năm kể từ ngày cấp phép lưu hành mới [34]. Việt Nam đã nội luật hoá về cách thức bảo hộ dữ liệu đối với nông hóa phẩm theo hướng Hiệp định CTPPP yêu cầu. Việt Nam cũng tích cực tham gia các dự án hỗ trợ từ các đối tác nước ngoài [18] nhằm tham khảo kinh nghiệm trong quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành nghĩa vụ về nông hóa phẩm.

Hiệp định CPTPP yêu cầu các nước thành viên trước khi cấp phép lưu hành dược phẩm dựa trên các dữ liệu thử nghiệm trước đó đã được nộp, thì phải triển khai một trong hai cơ chế sau. Thứ nhất, cơ quan cấp phép phải có cơ chế để thông báo cho chủ sở hữu bằng sáng chế về việc cấp phép lưu hành để những người này chủ động bảo vệ quyền; dành thời gian và cơ hội hợp lý để chủ sở hữu bằng sáng chế thực hiện các hành động bảo vệ quyền; và trường hợp sản phẩm đang trong quá trình xin phép lưu hành bị nghi là có xâm phạm độc quyền sáng chế thì phải dành cho chủ sở hữu cơ hội và thời gian hợp lý để yêu cầu bồi thường cũng như có cơ chế hành chính hoặc tố tụng để giải quyết các yêu cầu bồi thường này [34].

Đối với cơ chế thứ hai, các quốc gia thành viên của Hiệp định CPTPP phải thiết lập hoặc duy trì một cơ chế ngoài Tòa án cho phép loại trừ việc lưu hành dược phẩm nếu không được sự đồng ý của chủ sáng chế. Cơ chế này yêu cầu sự phối hợp giữa cơ quan bảo hộ sáng chế với cơ quan đăng ký lưu hành. Ngoài ra, Hiệp định CPTPP quy định thời gian bảo hộ độc quyền các dữ liệu bí mật là năm (05) năm kể từ ngày cấp phép lưu hành đối với dược phẩm có thành phần mới [34]. Thời hạn bảo hộ độc quyền đối với dược phẩm cũ không có thành phần mới mà chỉ có chỉ định mới hoặc công thức mới là ba (03) năm [34]; và đối với sinh phẩm là tám (08) năm kể từ ngày cấp phép lưu hành [34].

Luật SHTT 2022 quy định khi nộp đơn xin cấp phép lưu hành, chủ sở hữu phải cung cấp kết quả thử nghiệm hoặc dữ liệu khác là bí mật kinh doanh thu được kèm đơn yêu cầu giữ bí mật. Từ đó, cơ quan có thẩm quyền có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp cần thiết để các dữ liệu đó không bị sử dụng nhằm mục đích thương mại không lành mạnh và không bị bộc lộ, trừ khi việc bộc lộ là cần thiết nhằm bảo vệ công chúng [51]. Đối với những dữ liệu bí mật đã được nộp, cơ quan có thẩm quyền không được cấp phép cho bất kỳ người nào nộp đơn muộn hơn nếu trong đơn sử dụng dữ liệu bí mật đó trong vòng mười (10) năm đố với nông hoá phẩm [51], và năm (05) năm đối với dược phẩm[51]. Thay đổi này cho phép chủ sở hữu một khoảng thời gian hợp lý để bảo vệ quyền. Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi họ phải chủ động trong việc bảo vệ quyền của mình thay vì chỉ nộp đơn cấp phép lưu hành. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền cấp phép lưu hành dược phẩm cho phép người nộp đơn sau dựa vào việc một dược phẩm hoặc dữ liệu của dược phẩm đó đã được cấp phép lưu hành để xin cấp phép lưu hành cho một dược phẩm khác thì cơ quan đó phải công bố trên trang điện tử của họ về thông tin của đơn nộp sau trong vòng năm (05) tháng trước khi dược phẩm trong đơn nộp sau được cấp phép lưu hành [51]. Đây là cơ hội và thời gian hợp lý cho phép chủ sở hữu dược phẩm đã được cấp phép lưu hành có thể yêu cầu bồi thường.

Chủ văn bằng độc quyền sáng chế không phải nộp phí sử dụng văn bằng bảo hộ cho khoảng thời gian mà thủ tục đăng ký lưu hành lần đầu của dược phẩm được sản xuất theo bằng độc quyền sáng chế tại Việt Nam bị chậm [51]. Tuy vậy, cần xem xét tính khả thi của quy định này bởi pháp luật về dược chưa quy định việc cấp văn bản xác nhận về việc thủ tục đăng ký lưu hành dược phẩm bị chậm, chỉ có các quy định liên quan đến cấp mới, sửa đổi, gia hạn số đăng ký lưu hành dược phẩm. Những thay đổi này chỉ đáp ứng một phần yêu cầu của Hiệp định CPTPP khi vẫn chưa quy định đầy đủ thời hạn bảo hộ độc quyền đối với sinh phẩm hoặc dược phẩm cũ nhưng có chỉ định, liều dùng mới. Bên cạnh việc chưa quy định cơ chế giải quyết ngoài tòa án thì cơ chế thông báo cho người nộp đơn cũng chưa đáp ứng được toàn bộ yêu cầu của Hiệp định CPTPP.

Cam kết về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp theo Hiệp định CPTPP có hai điểm đáng lưu ý. Một là, các thành viên phải bảo hộ đầy đủ và hiệu quả kiểu dáng công nghiệp, bao gồm cả các kiểu dáng được thể hiện ở một phần của sản phẩm hoặc một phần của một sản phẩm nằm trong tổng thể toàn bộ sản phẩm, đồng thời tuân thủ quy định của điều 25 và 26 của Hiệp định TRIPS [34]. Hai là, các thành viên phải nỗ lực trong việc tăng cường bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cũng như cải thiện chất lượng, nâng cao hiệu quả của cơ chế đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp [34]. Theo đó, kiểu dáng công nghiệp được sửa đổi “là hình dáng bên ngoài của sản phẩm hoặc bộ phận để lắp ráp thành sản phẩm phức hợp…” [51]. Hơn nữa, Luật SHTT 2022 cũng đưa ra quy định mới đối với đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp bao gồm quy định liên quan đến tài liệu; bộ ảnh chụp hoặc bản vẽ; và phẩn mô tả chi tiết sản phẩm [51].

Các sửa đổi, bổ sung trên đã tuân thủ các yêu cầu đặt ra của Hiệp định CPTPP về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Đây là một thay đổi lớn khi hình dáng chi tiết bên trong của sản phẩm cũng được bảo hộ không chỉ đảm bảo việc khai thác quyền của chủ sở hữu đạt hiệu quả cao nhất mà còn là động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Hơn nữa, quy định này sẽ ngăn chặn việc sao chép sản phẩm thông qua việc chỉ thay đổi hình dáng bên ngoài mà vẫn giữ nguyên các chi tiết bên trong sản phẩm. Việt Nam cũng đã tham gia Thỏa ước La Hay tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nộp đơn đăng ký quốc tế về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Các chủ thể sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức, và tài chính bởi chỉ cần đăng ký một thủ tục nhưng được xem xét bảo hộ tại gần 70 quốc gia trên thế giới.

Nói tóm lại, Việt Nam đã đáp ứng được cơ bản các yêu cầu nội luật hóa cam kết quyền SHCN theo Hiệp định CPTPP. Mặc dù, vẫn còn một số cam kết chưa hoặc được nội luật hóa một phần nhưng điều này là phù hợp với lộ trình thực hiện cam kết của Việt Nam cũng như điều kiện thực tế của đất nước. Đây cũng là hành lang pháp lý cho phép cơ quan chức năng và chủ sở hữu bảo hộ quyền SHTT hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cần nhanh chóng làm rõ, hướng dẫn chi tiết những sửa đổi, bổ sung của Luật SHTT tại các văn bản dưới luật nhằm tránh tình trạng áp dụng sai hoặc quy định chồng chéo.

Tương tự thực thi cam kết về QTG và QLQ, đối với quyền SHCN theo Hiệp định CPTPP, Việt Nam cũng đã triển khai ba nhiệm vụ. Mục tiêu đầu tiên được thực hiện tương tự như QTG và QLQ khi có sự tham gia của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ban nghành liên quan [54]. Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về SHCN [64]. Năm 2021, Việt Nam đã chính thức gia nhập Hiệp ước Budapest [19] tạo điều kiện cho việc công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh nhằm tiến hành các thủ tục về sáng chế, đồng thời thể hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia CPTPP [65]. Năm 2020, có 62 văn bản chỉ đạo điều hành, hướng dẫn tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật về SHCN được ban hành bởi 27 địa phương. Đồng thời, đã có tất cả 36 cuộc hội thảo, tọa đàm, 173 lớp tập huấn với hơn 20.000 lượt người tham dự, và hàng trăm lượt tuyên truyền phổ biến kiến thức, chính sách và pháp luật về SHTT trên các phương tiện thông tin đại chúng nói trên [20]. Tuy vậy, các địa phương vẫn cần tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức triển khai và hướng dẫn thi hành các chính sách, pháp luật về SHCN nhằm đưa các chính sách đó thực sự đi vào cuộc sống, phù hợp với quy mô, điều kiện thực tế của mỗi địa phương. Đây là giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy các hoạt động quản lý nhà nước về SHCN tại địa phương cũng như tăng cường các biện pháp phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đăng ký, bảo hộ quyền SHCN [20].

Thủ tướng Chính phủ cũng đặt mục tiêu cải thiện các chỉ số về SHTT như số đơn đăng ký sáng chế tăng 16-18%/năm; đối với kiểu dáng công nghiệp là 6-8%/năm; và nhãn hiệu là 8-10%/năm [64]. Cuối năm 2020, Cục SHTT đã công bố gần 72.000 đơn đăng ký xác lập quyền SHCN cho các đối tượng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu [4].

Tuy nhiên, số lượng đơn đăng ký SHCN chủ yếu tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh do đây là hai trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị lớn nhất cả nước, tập trung rất nhiều doanh nghiệp lớn, trường đại học và viện nghiên cứu. Bên cạnh đó, số liệu so sánh qua từng năm cho thấy tốc độ tăng trưởng đơn đăng ký SHCN của đa số các tỉnh/thành phố trong cả nước còn khá chậm. Chính vì vậy, cần phải có các biện pháp nhằm gia tăng hiệu quả của việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về SHCN cho các địa phương có số lượng đơn đăng ký SHCN còn khiêm tốn, góp phần gia tăng số lượng đơn đăng ký SHCN từ các khu vực này [21].

Hiện nay, Việt Nam chỉ có hai Sở KH&CN tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có phòng chuyên trách quản lý về SHCN. Về nhân sự, Việt Nam có bốn mươi bốn (44) cán bộ chuyên trách và một trăm mười tám (118) cán bộ kiêm nhiệm thực hiện công tác quản lý nhà nước về SHCN tương đương với tỉ lệ không phẩy bảy (0.7) cán bộ chuyên trách/ địa phương [20]. Tỉ lệ này cho thấy sự thiếu hụt nghiêm trọng về mặt nhân sự trong công tác quản lý nhà nước về SHCN, vì vậy đòi hỏi phải có sự bổ sung lực lượng cán bộ chuyên trách về SHCN và đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ.

Việt Nam thực hiện mục tiêu thứ hai tương tự như đối với QTG và QLQ. Bộ Công Thương là đại diện chính của Việt Nam tiếp tục khẳng định quyết tâm thực thi đầy đủ Hiệp định CPTPP trong đó bao gồm các cam kết về quyền SHCN một cách đầy đủ và đúng đắn, nhằm đạt được kết quả như các thành viên đã đàm phán.

Đối với nhiệm vụ thứ ba, Việt Nam đã tích cực hợp tác với các quốc gia thành viên CPTPP trong đó có Nhật Bản. Năm 2021, Nhật Bản đã cấp CDĐL cho vải thiều Lục Ngạn và thanh long Bình Thuận, tạo điều kiện thuận lợi cho hai mặt hàng nông sản này khi bước sang các thị trường khác bởi Nhật Bản là một thị trường vô cùng khó tính [23]. Với sự hỗ trợ từ Nhật Bản, Cục SHTT đã chính thức triển khai dự án “Nâng cao năng lực xử lý đơn sở hữu công nghiệp tại Cục Sở hữu trí tuệ” [24] nhằm xây dựng tài liệu kiểm soát chất lượng thẩm định đơn sáng chế, hoàn thiện quy chế thẩm định đơn sáng chế hiện có và bổ sung hướng dẫn thẩm định đơn sáng chế trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật và phần mềm máy tính.

Một thành viên khác của CPTPP là Canada cũng tích cực hỗ trợ Việt Nam thông qua dự án Hỗ trợ thực thi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ” [25]. Dự án cung cấp tài liệu hướng dẫn gồm các khái niệm cơ bản về SHTT, các quyền SHTT trực tiếp gắn với doanh nghiệp vừa và nhỏ, các vấn đề về SHTT trong Hiệp định CPTPP, đặc biệt là tài liệu giới thiệu các chiến lược SHTT của doanh nghiệp để có thể hưởng lợi từ Hiệp định CPTPP.

Theo: Nguyễn Khắc Chinh

Link luận văn: 

https://docs.google.com/document/d/1l51iHjaYdrdeKCzZAwzxe-GKl573QTKe/edit

 

avatar
Đặng Quỳnh
741 ngày trước
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CAM KẾT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM
 3.1  Thực trạng các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương3.1.1 Khái quát về nghĩa vụ thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình DươngChương 18 của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) bao gồm tám mươi ba (83) điều khoản sắp xếp theo các mục từ A đến K và các phụ lục từ A đến F. Chương này bao gồm các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ với những tiêu chuẩn bảo hộ đa phần là hơn hoặc bằng so với Hiệp định TRIPS. Điều này là bởi ngay từ đầu chương 18 được dẫn dắt bởi Hoa Kỳ - quốc gia “xuất khẩu” sản phẩm sáng tạo. Chính vì vậy, mười một (11) quốc gia thành viên còn lại đã phân tích những nội dung chưa phù hợp của chương 18 và cân nhắc tạm dừng thực hiện cho đến khi các thành viên nhất trí kết thúc việc tạm đình chỉ đó.Theo đó, những nội dung tạm định chỉ gồm: Điều 18.8; Điều 18.37; Điều 18.46; Điều 18.48; Điều 18.50; Điều 18.51; Điều 18.63; Điều 18.68; Điều 18.69;Điều 18.79; Điều 18.82; Phụ lục 18-E; Phụ lục 18-F. Những nội dung tạm đình chỉ này liên quan đến:(i)  kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế khi cơ quan cấp bằng sáng chế tạo ra “sự trì hoãn không hợp lý” trong việc cấp bằng sáng chế [34] hoặc có một sự “trì hoãn không cần thiết” trong việc cấp giấy phép lưu hành dược phẩm [34];(ii)   điều khoản mở rộng “các đối tượng có thể được cấp bằng sáng chế” đến những sản phẩm đã biết nhưng có công dụng mới, quy trình sử dụng mới hoặc cách thức sử dụng mới [34];(iii)  quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả [34];(iv)  các quy định về bảo vệ các kết quả thử nghiệm vã dữ liệu bí mật [34];(v)  quy định liên quan tới bảo vệ sinh phẩm [34];(vi)  điều khoản liên quan đến tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hóa và tín hiệu truyền hình cáp [34];(vii)  quy định về phát triển hệ thống các biện pháp công nghệ phục vụ cho việc bảo vệ quyền và hệ thống thông tin quản lý quyền [34];(viii)   quy định về nghĩa vụ của nhà cung cấp dịch vụ Internet khi có sự vi phạm bản quyền trực tuyến [34].Chương 18 của Hiệp định CPTPP bao gồm các cam kết liên quan tới bảo hộ và thực thi quyền SHTT, các cam kết này được chia làm bốn nhóm nghĩa vụ chính dành cho các quốc gia thành viên.Thứ nhất, nhóm các cam kết chung với các cam kết về việc gia nhập các Công ước về SHTT được liệt kê và mỗi quốc gia thành viên được hưởng một lộ trình gia nhập khác nhau [34]. Ví dụ, Việt Nam có lộ trình gia nhập là từ hai (02) đến ba (03) năm tùy công ước, trong khi đó lộ trình của Malaysia lại kéo dài hơn và ít nhất là (03) năm tùy công ước. Ngoài ra, nhóm các cam kết chung này cũng điều chỉnh về các vấn đề khác như hợp tác giữa các nước thành viên của Hiệp định CPTPP trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; hay các nguyên tắc chung như đối xử quốc gia, minh bạch.Thứ hai, nhóm các cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ các quyền SHTT. Nhóm này bao gồm các cam kết về tiêu chuẩn bảo hộ đối với phần lớn các loại tài sản sở hữu trí tuệ như nhãn hiệu, sáng chế, quyền tác giả và quyền liên quan, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý. Các tiêu chuẩn này dựa trên nhưng đa phần cao hơn so với tiêu chuẩn tương ứng của Hiệp định TRIPS. Tương tự như nhóm đầu tiên, các quốc gia thành viên sẽ được hưởng một lộ trình thực hiện khác nhau. Ví dụ, Việt Nam được hưởng lộ trình thực hiện các cam kết về tiêu chuẩn bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trung bình từ ba (03) cho đến năm (05) năm. Trong khi đó, Brunei được hưởng lộ trình thực hiện từ mười tám (18) tháng đến tối đa là bốn (04) năm [34].Thứ ba, cùng với các tiêu chuẩn chung đối với các nhóm tài sản sở hữu trí tuệ, Hiệp định CPTPP còn bao gồm các cam kết riêng về một số loại sản phẩm SHTT đặc thù như nông hóa phẩm, dược phẩm. Ngoài ra, nhóm các cam kết riêng này còn hướng đến việc xử lý các vấn đề SHTT thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin như: tín hiệu vệ tinh, truyền hình kỹ thuật số, các công cụ bảo mật, trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ mạng Internet... Việt Nam được hưởng lộ trình thực hiện các cam kết này từ hai (02) năm đến mười (10) năm, tuỳ vào từng cam kết đối với các đối tượng cụ thể [34].Nhóm cuối cùng liên quan tới việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể, nhóm này bao gồm những cam kết tăng cường mức độ hiệu quả thực thi và bảo hộ các quyền SHTT. Các cam kết này đồng thời cũng hướng tới việc xử lý nghiêm khắc hơn, có tính răn đe, ngăn ngừa tái phạm đối với các vi phạm quyền SHTT. Nguyên nhân là bởi các xâm phạm về quyền SHTT hiện nay diễn ra với quy mô ngày càng phức tạp, tinh vi, với các hình thức vi phạm khác nhau trong nhiều lĩnh vực như văn hóa nghệ thuật, khoa học công nghệ, hay các vi phạm trên những nền tảng số. Bên cạnh đó, hiệu quả thực thi và bảo hộ quyền SHTT của Hiệp định TRIPS và các Công ước về quyền SHTT do WIPO quản lý đã không đáp ứng được nhu cầu bảo hộ của các quốc gia phát triển. Đối với nhóm cam kết về thực thi các quyền sở hữu trí tuệ, Việt Nam có lộ trình từ hai (02) năm đến ba (03) năm để thực hiện tùy vào các biện pháp cụ thể [34]. Trong khi đó, Malaysia có lộ trình thực hiện các cam kết về thực thi quyền SHTT lâu hơn, cụ thể là các yêu cầu đặc biệt liên quan tới các biện pháp tại biên giới có lộ trình thực hiện là bốn (04) năm [34].3.1.2 Quá trình thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương của Việt NamTại Báo cáo số 522/BC-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ về thuyết minh Báo cáo về Hiệp định CPTPP gửi Quốc hội, theo đó đối với các văn bản luật được kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhưng chưa đưa được vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và năm 2019, bao gồm Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Kinh doanh bảo hiểm. Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018 [55] (Nghị quyết số 72/2018) về Phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan đã ban hành danh mục các luật cần phải sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết trong Hiệp định CPTPP tại Mục 2 Phụ lục 3, trong đó có Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ. Ngày 24 tháng 12 năm 2018, Văn phòng chính phủ có Công văn số 12477/VPCP- QHQ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về hoàn thiện kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTTP.Triển khai nhiệm vụ soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tiến hành tổng kết đánh giá hiện trạng của một số chính sách đề nghị sửa đổi trong lĩnh vực SHTT tại Việt Nam. Sau khi tổng hợp các báo cáo và đánh giá, ngày 14 tháng 06 năm 2019, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật SHTT tại luật số 42/2019/QH14. Các sửa đổi này tập trung chủ yếu về hiệu lực pháp lý với bên thứ ba của hợp đồng sử dụng quyền sở hữu công nghiệp; căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất; và trách nhiệm thanh toán của nguyên đơn đối với bị đơn khi Tòa án xác định bị đơn không thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn.Các sửa đổi trên chỉ mới đáp ứng một phần các yêu cầu của Hiệp định CPTPP nên ngày 16 tháng 06 năm 2022, Quốc hội tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT. Nội dung sửa đổi liên quan đến biện pháp công nghệ bảo vệ quyền và thông tin quản lý quyền để đảm bảo thực thi trong môi trường số; ngoại lệ quyền tác giả, quyền liên quan; bảo hộ nhãn hiệu âm thanh; chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu; cơ chế bảo đảm thông tin cho chủ bằng sáng chế thực thi quyền trong thủ tục cấp phép lưu hành thị trường đối với dược phẩm; nghĩa vụ bảo hộ dữ liệu bí mật trong đơn xin cấp phép nông hóa phẩm; cơ chế đền bù cho chủ sở hữu sáng chế vì sự chậm trễ trong việc cấp phép lưu hành dược phẩm; giả định về quyền tác giả, quyền liên quan; quyền, trách nhiệm của những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trên môi trường mạng Internet và mạng viễn thông; nghĩa vụ chủ động tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bị nghi ngờ là hàng giả mạo SHTT.Trên cơ sở hoàn thiện thể chế đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP, thực tiễn bảo hộ quyền SHTT ngày càng minh chứng cho nghĩa vụ thực hiện các cam kết bảo hộ quyền SHTT của Việt Nam. Bên cạnh đó, thời gian qua Việt Nam cũng đã nỗ lực gia nhập các Điều ước quốc tế liên quan theo yêu cầu của Hiệp định CPTPP như Hiệp ước về Quyền tác giả của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước WCT); Hiệp ước về Biểu diễn và bản ghi âm của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước WWPT); Thoả ước La-hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp (Thoả ước La-hay); và Hiệp ước Budapest về sự công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh nhằm tiến hành các thủ tục về sáng chế (Hiệp ước Budapest).3.2  Các nghĩa vụ thực hiện và thực trạng thực hiện các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương của Việt Nam3.2.1 Thực trạng nội luật hóa và tổ chức thực hiện các cam kết của Việt Nam về quyền tác giả và quyền liên quan theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình DươngCác cam kết về quyền tác giả (QTG), quyền liên quan (QLQ) của Hiệp định CPTPP được quy định tại Mục H và J – Chương 18 [34]. Theo đó, QTG bao gồm các định nghĩa áp dụng đối với người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm như: phát sóng, truyền đạt tới công chúng, định hình, người biểu diễn, bản ghi âm, nhà xuất bản ghi âm, và công bố [34]. QTG và QLQ được quy định rằng mỗi quốc gia thành viên của Hiệp định CPTPP phải dành các quyền của người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm cho người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm là công dân của quốc gia thành viên khác; cho cuộc biểu diễn hoặc bản ghi âm công bố lần đầu tiên hoặc định hình lần đầu tiên trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia thành viên khác [34]. Pháp luật Việt Nam cơ bản đã tương thích với những quy định trên, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều nội dung đặt ra yêu cầu nội luật hóa với Việt Nam.Thứ nhất, Hiệp định CPTPP yêu cầu rằng tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất (gọi chung là “chủ sở hữu”) được độc quyền trong việc cho phép, không cho phép hoặc cấm sao chép [34], truyền đạt [34] và phân phối [34] tác phẩm, cuộc biểu diễn, hoặc bản ghi âm của mình đến công chúng theo bất kỳ hình thức hoặc cách thức nào, bằng hình phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (Luật SHTT 2022) quy định sao chép là “việc tạo ra bản sao của toàn bộ hoặc một phần tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào" [51]. Khoản 5 Điều 1 Luật SHTT 2022 quy định chủ sở hữu QTG được “độc quyền thực hiện hoặc cho phép” bên thứ ba sao chép, truyền đạt, và phân phối tác phẩm của mình đến công chúng [51]. Sửa đổi này phù hợp với Công ước Berne bởi tại khoản 1 điều 9 của Công ước chỉ điều chỉnh quyền cho phép, còn hoàn toàn không đề cập đến việc tác giả có thể cấm việc sao chép dưới bất kỳ hình thức nào hay không [14]. Đối với Hoa Kỳ, họ cũng chỉ trao cho chủ sở hữu quyền độc quyền về việc cho phép sao chép các tác phẩm được bảo hộ dưới dạng bản sao hoặc bản ghi âm [87].Thứ hai, Hiệp định CPTPP quy định rằng quyền được bảo hộ của các chủ sở hữu đối với cùng một tác phẩm là ngang nhau, không có thứ tự ưu tiên [34]. Theo đó, nếu bên thứ ba muốn sử dụng tác phẩm thuộc quyền sở hữu của tác giả, người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm/ ghi hình tác phẩm đó thì phải xin phép và được sự đồng ý của tất cả các chủ thể này. Theo Luật SHTT 2022, cá nhân hoặc tổ chức muốn sử dụng tác phẩm bảo hộ QTG phải được sự cho phép và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu QTG [34]. Bên cạnh đó, khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền của người biểu diễn hoặc nhà sản xuất bản ghi âm/ ghi hình, thì bên thứ ba phải được sự cho phép và trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền đối với cuộc biểu diễn [34], hoặc chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình [34]. Những thay đổi này bắt buộc bên thứ ba muốn sử dụng tác phẩm được bảo hộ phải được sự cho phép của các chủ thể quyền thay vì chỉ trả thù lao [48] hoặc các quyền lợi vật chất khác [48] như trước kia.Thứ ba, Hiệp định CPPTPP kéo dài thời gian bảo hộ QTG và QLQ thêm 20 năm so với pháp luật hiện hành của Việt Nam [34]. Nếu chủ thể quyền không phải cá nhân, gia hạn thêm hai mươi (20) năm tức là thời gian được bảo hộ tăng lên tới 40% so với trước đây. Việt Nam có năm (05) năm để nội luật hóa cam kết này từ ngày CPTPP có hiệu lực nên Luật SHTT 2022 vẫn chưa điều chỉnh các cam kết trên. Cam kết này mang đến nhiều lợi ích cho các các tác giả và doanh nghiệp chủ sở hữu quyền bởi họ có thêm thời gian để khai thác lợi ích về kinh tế và danh tiếng. Tuy nhiên, quy định này phần nào sẽ ảnh hưởng đến những lợi ích cộng đồng khi việc được tiếp cận miễn phí các tác phẩm này sẽ phải kéo dài thêm.Thứ tư, CPTPP đưa ra các cam kết nhằm bảo vệ QTG và QLQ thông qua việc ngăn chặn các hành vi làm công cụ cho việc xâm phạm các quyền này. Các hành vi phá, dỡ, vô hiệu hóa các công nghệ bảo vệ (Technological Protection Measures “TPM”) [34] và hành vi xâm phạm thông tin quản lý quyền (Rights Management Information “RMI”) [34] nhằm mục đích thương mại hoặc thu lợi sẽ bị xử lý hình sự và bồi thường thiệt hại. Luật SHTT 2022 đã định nghĩa “Biện pháp công nghệ bảo vệ quyền” và “Thông tin quản lý quyền” [51], bổ sung quy định về hành vi xâm phạm QTG và QLQ bao gồm các hành vi phá dỡ, vô hiệu hóa các công nghệ bảo vệ [51], và xâm phạm thông tin quản lý quyền [51]. Các quy định này đã tương thích với yêu cầu của CPTPP, thể hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia các FTAs thế hệ mới nhằm bắt kịp với sự phát triển của công nghệ, nâng cao hiệu quả bảo hộ QTG trong môi trường Internet. Điều này tạo động lực sáng tạo và tối đa hóa việc khai thác lợi ích từ sản phẩm của các chủ thể quyền.Thứ năm, Hiệp định CPTPP đặt ra yêu cầu đối với các quốc gia thành viên về việc phải đảm bảo việc cân đối giữa quyền của chủ sở hữu với các mục tiêu công cộng khác. Trong từng trường hợp cụ thể, các ngoại lệ này sẽ được áp dụng tùy theo cách thức và điều kiện cho phép [34]. Ví dụ, một phần hoặc toàn bộ tác phẩm được sử dụng nhằm phân tích, bình luận, báo cáo, giảng dạy, nghiên cứu, hoặc hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận tác phẩm thuận lợi hơn. Luật SHTT 2022 đã liệt kê cụ thể những ngoại lệ không phải xin phép và không phải trả tiền bản quyền cho tác giả [51], người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm/ ghi hình [51]. Những ngoại lệ này cơ bản đáp ứng yêu cầu đặt ra của CPTPP và hướng đến việc cân bằng lợi ích giữa cộng đồng và chủ thể quyền.Những thay đổi của Luật SHTT 2022 mới chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu nội luật hóa các cam kết về QTG và QLQ theo Hiệp định CPTPP. Cụ thể, cam kết về việc không có thứ tự ưu tiên trong bảo hộ QTG và QLQ chưa được quy định. Luật SHTT 2022 cũng chưa quy định việc chủ sở hữu được độc quyền trong việc cấm sao chép, truyền đạt tới công chúng, phân phối và phát sóng các tác phẩm của mình. Việt Nam cũng chưa nội luật hóa cam kết về gia tăng thời hạn bảo hộ. Bên cạnh đó, các cam kết đã được nội luật hóa mới chỉ dừng lại ở các quy định chung, mà chưa có các hướng dẫn cụ thể tại các văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư. Điều này sẽ gây khó khăn cho cả cơ quan chức năng và chủ sở hữu quyền SHTT khi có tranh chấp xảy ra bởi cách hiểu có thể khác nhau khi chưa được hướng dẫn cụ thể, chi tiết.Vì vậy, cần nhanh chóng hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm đáp ứng các cam kết của Hiệp định CPTPP cũng như nhu cầu thực tế của cơ quan chức năng và chủ thể quyền. Tuy nhiên, việc đáp ứng một phần yêu cầu nội luật hóa các cam kết về quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP có thể tạm chấp nhận được bởi nó phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay cũng như lộ trình cam kết của Việt Nam. Việt Nam cần có sự chuẩn bị kĩ nhằm đảm bảo rằng Nhà nước và các chủ thể quyền có đủ thời gian, nguồn lực để kịp thích ứng.Nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các cam kết về QTG và QLQ theo CPTPP, Việt Nam cần phải đảm bảo thực hiện những mục tiêu sau: (i) Thực hiện cam kết về QTG và QLQ; (ii) Thiết lập một hệ thống bao gồm các thiết chế để quản lý và tổ chức thực thi QTG và QLQ theo CPTPP; (iii) Báo cáo tiến độ thực hiện và hợp tác với các quốc gia thành viên của Hiệp định. Để thực hiện mục tiêu đầu tiên thì Nhà nước, tổ chức, và người dân phải đảm bảo thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của mình. Nghị quyết số 72/2018 và các văn kiện liên quan đã ban hành danh mục các luật cần phải sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết trong Hiệp định CPTPP tại Mục 2, Phụ lục 3.Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm phê duyệt và chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên quan triển khai kế hoạch thực hiện cam kết về quyền tác giả, quyền liên quan theo CPTPP; phát triển nguồn nhân lực để bảo đảm tận dụng cơ hội, lợi ích từ các cam kết này. Đồng thời lên kế hoạch, triển khai hiệu quả các biện pháp phòng ngừa và xử lý những tác động bất lợi có thể phát sinh trong quá trình thực hiện cam kết về quyền tác giả, quyền liên quan theo CPTPP; đảm bảo rằng các cam kết này được thông tin, tuyên truyền kịp thời, đầy đủ nội dung nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của hệ thống chính trị, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân về việc Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP [54]. Cuối cùng, Chính phủ có nhiệm vụ chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan hoàn thành thủ tục phê chuẩn CPTPP và thông báo thời điểm có hiệu lực đối với Việt Nam [54].Theo đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL) thực hiện rà soát các dự án luật tại Phụ lục 3 và các văn bản pháp luật khác liên quan đến QTG và QLQ để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới kịp thời, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đúng lộ trình thực hiện các cam kết theo Hiệp định CPTPP [54]. Các nghĩa vụ phải thực hiện ngay khi CPTPP có hiệu lực đã được nội luật hóa tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ [50]. Bộ VHTTDL chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về QTG và QLQ [64] và soạn thảo tờ trình phê duyệt để tham gia hai điều ước gồm: Hiệp ước về Quyền tác giả của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước WCT) và Hiệp ước về Biểu diễn và bản ghi âm của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước WPPT) [65]. Năm 2021, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp ước WCT sau khi hoàn thiện các thủ tục cần thiết qua đó giúp các chủ thể quyền được bảo hộ nhanh chóng trên phạm vi rộng hơn đồng thời thể hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia CPTPP .Đề án nhằm tăng cường năng lực quản lý và thực thi có hiệu quả pháp luật bảo hộ QTG và QLQ với những mục tiêu cụ thể trong giai đoạn 2020- 2025 [66] đã được phê duyệt. Trong giai đoạn này, số lượng cán bộ quản lý và thực thi pháp luật về QTG và QLQ từ Trung ương đến địa phương được tham gia chương trình tập huấn nghiệp vụ phải đạt 100% [66]. Số lượt các chủ thể quyền tham dự các lớp tập huấn về QTG và QLQ mỗi năm là khoảng 700 [66]. Đồng thời, tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có cán bộ kiêm nhiệm hoặc chuyên trách quản lý và thực thi pháp luật về QTG và QLQ [66]. Ngoài ra, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đối với hoạt động đăng ký QTG và QLQ [66]. Thực tế, đã có rất nhiều tỉnh, thành phố đã thực hiện những yêu cầu nêu trên với các kết quả tích cực như: Hải Dương [39]; Bắc Kạn [16]; Ninh Thuận ….Theo chiến lược về SHTT đến năm 2030, Chính phủ đặt mục tiêu phát triển được các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên QTG và QLQ nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm sáng tạo đa dạng, chất lượng cao, có thể đóng góp khoảng 7% GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội [64]. Cụ thể, chính sách, pháp luật về SHTT cần nhanh chóng hoàn thiện để đảm bảo hệ thống các tổ chức quản lý tập thể QTG và QLQ hoạt động có hiệu quả, minh bạch, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể sáng tạo, khuyến khích hoạt động sáng tạo [64]. Mục tiêu thứ hai đó là hỗ trợ, khuyến khích nhằm đẩy mạnh việc khai thác, sử dụng các sản phẩm sáng tạo là đối tượng của QTG và QLQ đã hết thời hạn bảo hộ hoặc thuộc về Nhà nước [64].Mục tiêu thứ ba là tăng cường năng lực, đầu tư cơ sở vật chất để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể QTG và QLQ, qua đó đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội, bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên liên quan [64]. Chiến lược trên đã thể hiện nỗ lực của Việt Nam nhằm thực hiện các cam kết về QTG và QLQ theo Hiệp định CPTPP. Nửa đầu năm 2019, Cục bản quyền tác giả đã thụ lý, cấp mới 3.410 giấy chứng nhận đăng ký QTG và QLQ [2]. Bên cạnh đó, với sự ra đời của 5 tổ chức nhằm thực hiện việc đàm phán cấp phép sử dụng, thu phí và phân phối lợi nhuận cho các chủ thể đã ủy thác quyền phần nào giải quyết được vấn đề yếu kém trong việc tự quản lý và khai thác quyền của chủ sở hữu. Năm 2020, Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC) có 276 tác giả là thành viên ký hợp đồng ủy quyền, nâng tổng số thành viên lên là 4540 tác giả. Năm 2020, mặc dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 nhưng VCPMC vẫn thu về hơn 150 tỉ đồng từ việc sử dụng QTG âm nhạc [67].Những bước đầu thực hiện cam kết của Việt Nam đã góp phần thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, tác giả thực sự được tôn trọng các quyền về mặt tinh thần, kinh tế, và các lợi ích khác từ việc khai thác tác phẩm. Bảo hộ quyền tác giả không chỉ đảm bảo quyền tự do sáng tạo của cá nhân, tổ chức mà còn đảm bảo quyền bình đẳng, tự định đoạt của các chủ thể. Sự tự do sáng tạo của cá nhân được khuyến khích, tôn trọng và đảm bảo trên cơ sở được sự bảo hộ của Nhà nước. Bên cạnh việc tạo ra hành lang pháp lý cho việc bảo hộ, thì việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức pháp luật cũng rất quan trọng. Nhận thức đầy đủ của người dân, doanh nghiệp về quyền tác giả, quyền liên quan là một yếu tố cốt lõi trong việc bảo hộ bởi nó không chỉ giúp tác giả yên tâm sáng tạo mà còn đem lại cho họ những lợi ích khác khi khai thác quyền [73]. Chính phủ, các cơ quan truyền thông đã vào cuộc rất tích cực trong việc tuyền truyền bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan từ đó đã có những chuyển biến rất tích cực đến từ người dân, doanh nghiệp khi thói quen tôn trọng quyền của họ đã và đang dần hình thành.Tuy nhiên, số liệu trên chưa phản ánh hết thực trạng bảo hộ hiện nay bởi vì đó chỉ là một phần rất nhỏ trong hàng chục nghìn tác phẩm thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật [62]. Đối với cá nhân, đặc biệt là tác giả - người trực tiếp sáng tạo, họ vẫn còn xem nhẹ vấn đề bản quyền vì ngại kiện tụng [62]. Khi có tranh chấp, tác giả phải tốn rất nhiều thời gian, công sức để thu thập chứng cứ như thời điểm sáng tạo, trình diễn, công bố tác phẩm hoặc xác định thời điểm bản viết tay ra đời. Điều này đã dẫn đến tâm lý chán nản, dễ buông xuôi, tạo điều kiện cho các xâm phạm diễn ra ngày càng nhiều, ngang nhiên, đồng thời làm cho nhiều vụ việc trở nên phức tạp, khó giải quyết [62]. Trong khi đó chỉ cần nắm rõ quy định của pháp luật và ý thức chủ động đăng ký bảo hộ để sử dụng làm bằng chứng cho việc xác lập quyền của mình, thì tác giả hoàn toàn có thể tránh khỏi tranh chấp, kiện tụng. Việc vẫn còn tồn tại tâm lý “xài chùa” [62] đã tạo động lực phát triển cho các vi phạm QTG và QLQ.Hiện nay, việc đưa các tác phẩm văn học, nghệ thuật, điện ảnh lên nền tảng số đã tạo ra một thị trường mới đầy hấp dẫn, đem lại doanh thu khủng nên thu hút rất nhiều sự tham gia của các công ty công nghệ [30]. Họ sẵn sàng đưa các tác phẩm văn học, nghệ thuật, điện ảnh trái phép hoặc không có bản quyền lên mạng để thu tiền thông qua lượt xem hoặc lượt quảng cáo [78]. Từ đó dẫn đến tình trạng xâm phạm QTG và QLQ trong môi trường Internet ngày càng nhiều với tính chất vô cùng phức tạp [30]. Hầu hết khi bị phát hiện, các đơn vị cung cấp nền tảng kinh doanh trái phép chỉ xin lỗi, gỡ các sản phẩm đã đưa lên hoặc đền bù mang tính hình thức trong khi tổn thất tinh thần thậm chí còn lớn hơn thiệt hại về kinh tế [63]. Hơn nữa, để đạt được những kết quả nêu trên thì chủ thể QTG và QLQ bị xâm phạm sẽ phải trải qua nhiều thủ tục kiện tụng phức tạp, tốn thời gian, và công sức [30]. Nhìn chung, việc thực hiện các cam kết về QTG và QLQ theo Hiệp định CPTPP đã có những chuyển biến tích cực từ Nhà nước, cá nhân, và tổ chức. Tuy vậy, rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết triệt để nhằm tuân thủ đầy đủ các cam kết về QTG và QLQ theo Hiệp định CPTPP.Đối với nhiệm vụ thứ hai, Bộ Công Thương là đại diện chính (cùng một số bộ ban nghành liên quan) của Việt Nam có nhiệm vụ tham gia tại các kì họp Hội đồng Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Hội đồng). Hội đồng bao gồm các đại diện Chính phủ mỗi Bên ở cấp Bộ trưởng hoặc quan chức cấp cao [34]. Hội đồng được thành lập nhằm đảm bảo việc thực thi Hiệp định bằng cách thiết lập một hệ thống bao gồm các thiết chế để quản lý và tổ chức thực hiện CPTPP [34] bao gồm các quyền SHTT. Cụ thể, Hội đồng có thể xây dựng các thỏa thuận để thực hiện CPTPP; giải quyết các tranh chấp phát sinh khi áp dụng CPTPP; hoặc đưa ra các giải thích về quy định của CPTPP [34]. Mỗi thành viên sẽ có trách nhiệm điều hành cuộc họp của Hội đồng theo thứ tự [34]. Trải qua sáu phiên họp, Hội đồng khẳng định quyết tâm thực thi đầy đủ Hiệp định CPTPP một cách đầy đủ và đúng đắn, nhằm đạt được kết quả như các thành viên đã đàm phán. Hội đồng cũng tiếp tục gửi tín hiệu mạnh mẽ về việc ủng hộ thương mại tự do; thiết lập các quy tắc tiêu chuẩn cao và cân bằng phù hợp với thế kỉ XXI. Việt Nam được đánh giá là một trong những thành viên đã tích cực khi đóng góp rất nhiều sáng kiến nhằm đẩy nhanh việc thực thi đầy đủ Hiệp định CPTPP trong đó có nội dung về SHTT.Nhiệm vụ thứ ba của Việt Nam đó là báo cáo tiến độ thực hiện và hợp tác với các quốc gia thành viên của Hiệp định CPTPP. Cụ thể, kể từ khi Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực, Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều hoạt động như xây dựng phương án, báo cáo Ban hội nhập quốc tế về kinh tế (Bộ VHTTDL) về việc triển khai thực hiện các cam kết về QTG và QLQ trong Hiệp định CPTPP, cùng với việc tham gia nhiều chương trình hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế về vấn đề bảo vệ QTG và QLQ [31]. Cụ thể, tháng 8 năm 2019, Cục bản quyền tác giả Việt Nam (COV) đã phối hợp cùng với Hiệp hội phân phối nội dung ở nước ngoài của Nhật Bản (CODA) tổ chức “Hội thảo về Thực thi quyền tác giả, quyền liên quan tại Việt Nam” tại Hà Nội. Tại hội thảo, các chuyên gia đã đánh giá và thảo luận về các quy định pháp luật và thực trạng bảo hộ QTG và QLQ tại Việt Nam; các biện pháp chống vi phạm bản quyền trên Internet tại Nhật Bản; các biện pháp CODA áp dụng nhằm ngăn chặn xâm phạm bản quyền; và các phương pháp mà CODA thực hiện nhằm phân phối nội dung có bản quyền được rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn. Ngoài ra, Nhật Bản cũng chia sẻ kinh nghiệm về các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý, thực thi QTG và QLQ ở Việt Nam trong thời gian tới.Năm 2020, COV tiếp tục tổ chức cuộc họp trực tuyến với CODA, với mục tiêu tổ chức hội thảo, sự kiện trực tuyến về thực thi QTG và QLQ trên môi trường số nhằm chia sẻ kinh nghiệm và nâng cao nhận thức về các quyền này [32]. Ngoài ra, hai bên cũng thống nhất việc cùng phối hợp nhằm xây dựng một bộ tài liệu tuyên truyền theo khuôn khổ của Bản ghi nhớ đã ký giữa Bộ VHTTDL và Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản với mục tiêu là “nhằm thiết lập một khuôn khổ chung về hợp tác song phương giữa Hai Bên về quyền tác giả thông qua trao đổi thông tin, những kinh nghiệm bổ ích và tiến hành các hoạt động nâng cao năng lực” [32]. Việc tích cực tham gia các diễn đàn, hội thảo quốc tế đã thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết về quyền SHTT theo CPTPP.3.2.2 Thực trạng nội luật hóa và tổ chức thực hiện các cam kết của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình DươngCác cam kết về quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại mục C, E, F, và G của chương 18 Hiệp định CPTPPP. Các cam kết này bao gồm: (i) Nhãn hiệu; (ii) Chỉ dẫn địa lý; (iii) Sáng chế và Dữ liệu bí mật hoặc Các dữ liệu khác; (iv) và Kiểu dáng công nghiệp [34]. Một số nội dung trong các cam kết trên đã tương thích với pháp luật Việt Nam nên không cần nội luật hóa. Thứ nhất, thời gian bảo hộ đối với nhãn hiệu tối thiểu là 10 năm [34] và có thể được gia hạn nhiều lần [48]. Thứ hai, thành viên CPTPP được phép lựa chọn bảo hộ chỉ dẫn địa lý (CDĐL) theo cơ chế riêng hoặc theo cơ chế chung với nhãn hiệu [34]. Cơ chế này phù hợp với Việt Nam khi hiện tại Việt Nam đang đồng thời bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Thứ ba, các quy định về phạm vi các đối tượng có thể được bảo hộ [34] cũng như các ngoại lệ đối với quyền của chủ sáng chế [34] tương tự các quy định đã có trong Hiệp định TRIPS, vốn đã được đưa vào pháp luật Việt Nam. Nhìn chung các cam kết của Hiệp định CPTPP dựa trên và trong nhiều trường hợp là cao hơn so với tiêu chuẩn tương ứng của Hiệp định TRIPS. Đối với Việt Nam, các tiêu chuẩn này cũng cao hơn quy định hiện tại của pháp luật về SHCN.Cam kết về nhãn hiệu của Hiệp định CPTPP cần nội luật hóa bao gồm: Đối tượng được bảo hộ; nhãn hiệu nổi tiếng; quyền của chủ sở hữu; và cải cách thủ tục hành chính. Bên cạnh các đối tượng truyền thống có thể nhìn thấy được mà pháp luật Việt Nam đang bảo hộ như chữ, ký hiện, từ ngữ, và hình ảnh thì Hiệp định CPTPP mở rộng bảo hộ đối với những đối tượng phi truyền thống như âm thanh và mùi hương [34]. Điều này xuất phát từ nhu cầu kinh doanh thực tế cũng như xu hướng phát triển của pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu trên thế giới. Luật SHTT 2022 quy định nhãn hiệu được bảo hộ nếu là dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa [51]. Luật SHTT 2022 cũng sửa đổi, bổ sung Điều 73 [51], Điều 74 [51] theo hướng loại trừ các dấu hiệu không nhìn thấy được không được coi là nhãn hiệu, và các trường hợp nhãn hiệu âm thanh bị coi là không có khả năng phân biệt. Mặc dù đã đáp ứng được yêu cầu nội luật hóa, tuy nhiên khi công nhận âm thanh là một loại nhãn hiệu thì việc đánh giá, công nhận nhãn hiệu này là một thách thức lớn với cơ quan chức năng. Bởi lẽ cần xác định rõ loại âm thanh như thế nào mới đủ tiêu chuẩn điều kiện đăng ký, các âm thanh đơn giản như tiếng chuông, tiếng chim hót… có được bảo hộ là nhãn hiệu hay không.Khi xem xét bảo hộ đối với một nhãn hiệu nổi tiếng theo Hiệp định CPTPP, Việt Nam không được dựa trên tiêu chí số lượng các quốc gia đã bảo hộ nhãn hiệu, đã công nhận nhãn hiệu nổi tiếng đó hoặc đã nằm trong danh mục nhãn hiệu nổi tiếng. Câu mở đầu của Điều 75 được sửa rằng: “Việc xem xét, đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng được lựa chọn từ một số hoặc tất cả các tiêu chí sau đây” [51]. Thay đổi này chưa đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP bởi hai tiêu chí về “Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu” và “Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng” vẫn tồn tại. Điều này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể khi xác định nhãn hiệu nổi tiếng bởi họ sẽ không nắm được trong trường hợp nào một số tiêu chí được áp dụng hoặc khi nào tất cả các tiêu chí được áp dụng. Vì vậy, khoản 6 và 7 Điều 75 [48] về tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng cần được loại bỏ; đồng thời cần bổ sung hướng dẫn cụ thể khi áp dụng các tiêu chí.Theo Hiệp định CPTPP, chủ sở hữu của nhãn hiệu được độc quyền ngăn cản các chủ thể khác sử dụng các dấu hiệu (bao gồm chỉ dẫn địa lý) trùng hoặc tương tự cho các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc gần với loại hàng hóa, dịch vụ đã đăng ký nhãn hiệu của mình nếu việc sử dụng này có thể gây ra nhầm lẫn [34]. Tuy vậy, các chủ thể khác vẫn được phép sử dụng một số thuật ngữ mô tả có trong nhãn hiệu đã được bảo hộ nếu việc sử dụng đó là ngay tình, và có tính đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu và các bên thứ ba [34]. Luật SHTT 2022 mới chỉ dừng lại ở việc quy định nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của chủ thể khác được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Thay đổi này dường như chưa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định CPTPP, tuy nhiên điều này là cần thiết bởi việc có được độc quyền trên sẽ dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền của chủ sở hữu. Hơn nữa, không nhiều chủ sở hữu nhãn hiệu đủ khả năng tự đánh giá các dấu hiệu trùng hoặc tương tự có thể gây ra nhầm lẫn. Vì vậy, nội luật hóa điều 18.20 của Hiệp định CPTPP cần làm từng bước để đánh giá hiệu quả thực tiễn áp dụng của pháp luật.Hiệp định CPTPP yêu cầu các quốc gia thành viên phải áp dụng các biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo thủ tục hành chính nhanh gọn, chính xác, và minh bạch khi đăng ký, gia hạn nhãn hiệu [34]. Hệ thống đăng ký phải đảm bảo cơ hội phản hồi của người nộp đơn cũng như cơ hội phản đối của các bên thứ ba, đồng thời Hiệp định CPTPP cũng khuyến khích việc áp dụng công nghệ thông qua việc sử dụng hệ thống đăng ký điện tử để minh bạch hóa các quy trình này [34]. Thực tế, hệ thống nộp đơn điện tử trực tuyến đối với các đối tượng SHCN đã hoạt động từ năm 2017 theo quy định của Nghị quyết số 36a/NQ-CP năm 2015 [53]. Hơn nữa, Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới cũng đang tích cực hỗ trợ Cục SHTT xây dựng một “Thư viện số về SHCN” trên nền tảng WIPO Publish [17]. Thư viện này giúp các chủ thể dễ dàng tra cứu đầy đủ các thông tin về các đối tượng SHCN đã được công bố. Mặc dù hệ thống điện tử đã tuân thủ yêu cầu của Hiệp định CPTPP nhưng nó vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp nhằm đáp ứng yêu cầu về nộp đơn đăng ký, gia hạn và tra cứu thông tin. Bên cạnh đó, đơn đăng ký xác lập quyền SHCN có thể dưới hình thức văn bản dạng giấy hoặc nộp trực tuyến. Thay đổi này là phù hợp, thuận tiện hơn cho chủ sở hữu trong việc đăng ký, gia hạn nhãn hiệu cũng như tương thích với cam kết của Hiệp định CPTPP.Cải cách thủ tục thứ hai đó là việc công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu trước bên thứ ba mà không dựa vào việc có hay không đăng ký tại Cục SHTT. Nhãn hiệu là loại tài sản SHTT rất dễ chuyển nhượng nhưng gặp rất nhiều khó khăn trong việc bảo hộ và định giá. Khi kiểm soát giao dịch thông qua cơ chế đăng ký bảo hộ, Việt Nam có thể đánh mất lợi thế cạnh tranh nếu các nước khác không quy định về việc đăng ký chuyển nhượng nhãn hiệu. Ngược lại, việc không kiểm soát có thể dẫn đến tình trạng các bên đẩy giá giao dịch lên cao nhằm chuyển vốn ra nước ngoài hoặc trốn thuế. Trong khi đó, Luật SHTT quy định việc chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN được hiểu là việc cho phép sử dụng đối tượng SHCN và việc đăng ký sẽ có giá trị đối với bên thứ ba [51]. Có nghĩa việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu giữa các cá nhân, tổ chức mà không đăng ký sẽ không có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba [51] khi tranh chấp xảy ra. Vì vậy, Điều 136 và Điều 148 của Luật SHTT được sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu nội luật hóa của Điều 18.27 Hiệp định CPTPP.Sửa đổi của khoản 2 điều 136 luật SHTT [51] công nhận việc sử dụng nhãn hiệu của người nhận chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu cũng chính là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu. Chủ sở hữu nhãn hiệu phải sử dụng nhãn hiệu mà mình được bảo hộ không gián đoạn quá năm (05) năm. Ngược lại, nhằm ngăn chặn tình trạng một số chủ thể chỉ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu để chuyển nhượng thì pháp luật cho phép bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức khác được yêu cầu Cục SHTT đình chỉ hiệu lực văn bằng bảo hộ. Thay đổi này phù hợp với Điều 95 Luật SHTT [51], đồng thời thống nhất với khoản 1 Điều 143 Luật SHTT [51] về chuyển quyền sử dụng độc quyền đối với nhãn hiệu mà không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Điều này cũng phù hợp với tập quán của hầu hết các nước khác khi mục tiêu chính của việc bảo hộ nhãn hiệu đó chính là bảo hộ uy tín sản phẩm và nhãn hiệu của các chủ thể.Như vậy, các hợp đồng về việc chuyển giao nhãn hiệu giữa các bên không bắt buộc phải đăng ký tại Cục SHTT và có giá trị pháp lý đối với tất cả các bên. Nó không những thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong việc giao dịch chuyển giao nhãn hiệu mà còn giúp đơn giản hóa các thủ tục hành chính.Khi đăng ký không còn là một thủ tục bắt buộc, các chủ thể sẽ chủ động trong việc kiểm soát nội dung hợp đồng và bằng chứng về người được chuyển giao quyền sử dụng nhằm đảm bảo việc khai thác nhãn hiệu. Có thể thấy, sửa đổi, bổ sung của Điều 136 và Điều 148 Luật SHTT đã phù hợp với yêu cầu của Hiệp định CPTPP về việc các quốc gia thành viên không được yêu cầu đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu (li-xăng) [34].Cuối cùng, đối với Tên miền cao cấp mã quốc gia (ccTLD), các quốc gia thành viên của Hiệp định CPTPP phải quy định cơ chế giải quyết tranh chấp tên miền dựa theo nguyên tắc của Tổ chức quản lý tên miền quốc tế (ICANN) hoặc tương tự [34]. Đồng thời, mỗi nước phải có biện pháp xử lý các chủ thể đăng ký hoặc nắm giữ tên miền tương tự hoặc gần giống đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu thương mại với mục đích thu lợi bất chính [34]. Luật SHTT 2022 bổ sung cụm từ “dụng ý xấu” tại khoản 1.d Điều 130 Luật SHTT và dường như thay đổi trên có sự tham khảo từ quy định của Chính sách giải quyết tên miền thống nhất (UDRP) của ICANN, bởi lẽ yếu tố "dụng ý xấu" là một trong bốn điều kiện để ICANN xem xét hủy một tên miền [12]. Thay đổi này sẽ đặt nền móng cho việc áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp tên miền dựa theo quy định của ICANN. Tuy nhiên, cần có hướng dẫn cụ thể hơn tại các văn bản dưới luật để làm rõ yếu tố “dụng ý xấu” nhằm tránh tình trạng áp dụng sai hoặc chồng chéo với các quy định khác.Hiệp định CPTPP đặt ra một loạt chuẩn mực mới về bảo hộ chỉ dẫn địa lý [34] gồm: (i) Cải cách thủ tục hành chính ; (ii) Căn cứ để phản đối hoặc từ chối bảo hộ đối với một chỉ dẫn địa lý; (iii) Thời điểm bắt đầu bảo hộ không được sớm hơn ngày nộp đơn đăng ký hoặc ngày được đăng ký; (iv) Tiêu chí về việc công nhận và bảo vệ chỉ dẫn địa lý theo các điều ước quốc tế.Đối với các thủ tục hành chính về bảo hộ và công nhận chỉ dẫn địa lý theo Hiệp định CPTPP, khi xảy ra trường hợp trùng hoặc tương tự giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý mà nhãn hiệu đó lại được đăng ký bảo hộ trước thì chỉ dẫn địa lý đó vẫn được bảo hộ nhưng quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ được ưu tiên hơn. Cụ thể, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền cấm việc sử dụng chỉ dẫn địa lý nếu việc sử dụng có thể gây nhầm lẫn về nguồn gốc thương mại của sản phẩm. Ngoại lệ được áp dụng khi chỉ dẫn địa lý chỉ có ý nghĩa mô tả xuất xứ của hàng hóa, vẫn được phép sử dụng song song cùng nhãn hiệu đó [34]. Tuy nhiên, chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ nếu có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu về nguồn gốc thương mại của sản phẩm trừ khi việc sử dụng chỉ dẫn địa lý thuộc trường hợp ngoại lệ đối với quyền của nhãn hiệu [34]. Khoản 3 Điều 80 Luật SHTT [51] thay cụm từ “sẽ gây nhầm lẫn” thành “có khả năng gây nhầm lẫn”, điều này đồng nghĩa chỉ cần chỉ dẫn địa lý có khả năng gây nhầm lẫn sẽ không được bảo hộ. Tiêu chuẩn bảo hộ đã cao hơn nhưng đồng thời dễ gây ra việc lạm dụng tiêu chuẩn này. Chính vì vậy, cần có các hướng dẫn chi tiết nhằm làm rõ các tiêu chí để đánh giá khi nào thì một chỉ dẫn địa lý có khả năng gây nhầm lẫn.Khoản 1 Điều 80 Luật SHTT bổ sung quy định việc đánh giá một thuật ngữ phải dựa trên cách hiểu của người tiêu dùng tại Việt Nam. Đối với chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ đa thành phần mà có thành phần là tên gọi chung của hàng hóa tại Việt Nam, việc đánh giá thành phần là tên gọi chung cũng được áp dụng tương tự như thuật ngữ là tên gọi chung tại Khoản 1 Điều 80 nên đã tương thích. Mặc dù hiện nay chưa có quy định bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự nhưng Việt Nam vẫn bảo hộ bản dịch, phiên âm hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý sang Tiếng Việt hoặc ngữ hệ Latin. Nói cách khác, đơn đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý dạng này vẫn được xử lý như đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý thông thường. Vì vậy, chỉ cần đưa nội dung này vào Quy chế hướng dẫn thẩm định là đủ để đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Điều 120a [51] luật SHTT bổ sung việc công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế, trong đó xác định việc công bố, xử lý ý kiến của người thứ ba, đánh giá điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý trong đề nghị quốc tế được thực hiện theo các quy định tương ứng tại Luật SHTT. Nhìn chung, các thay đổi của luật SHTT về chỉ dẫn địa lý đã đáp ứng được các yêu cầu về nội luật hóa của Hiệp định CPTPP.Sáng chế và Dữ liệu bí mật hoặc Các dữ liệu khác được quy định tại Mục F Chương 18 của Hiệp định CPTPP. Đối với sáng chế, các cam kết cần nội luật hóa bao gồm: (i) Tiêu chí bảo hộ; (ii) Thủ tục đăng ký sáng chế. Về tiêu chí bảo hộ, bất kỳ sáng tạo, dù là sản phẩm hay quy trình, trong tất cả các lĩnh vực, nếu mới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp [34] thì đều có thể được bảo hộ dưới dạng sáng chế. Thời gian ân hạn kéo dài 12 tháng đối với việc người nộp đơn hoặc bên thứ ba có được thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp từ người nộp đơn để kiểm tra trong các bước về tính mới và sáng tạo của sáng chế được cấp bằng sáng chế [34]. Điều 60 luật SHTT được sửa đổi rằng sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được người có quyền đăng ký hoặc người có được thông tin về sáng chế một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người đó bộc lộ công khai với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp tại Việt Nam trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày bộc lộ sáng chế [51]. Thời gian ân hạn kéo dài cho phép người nộp đơn sáng chế có thêm thời gian để cân nhắc các lợi ích của đăng ký và hoàn thiện hồ sơ đăng ký sáng chế. Quy định này rất có lợi cho các nhà nghiên cứu bởi trên thực tế, rất nhiều trong số họ vô tình làm mất đi tính mới của sáng chế khi vội công bố kết quả nghiên cứu của mình trên các tạp chí quốc tế danh tiếng ngay sau khi hoàn thành quá trình nghiên cứu.Ngoài ra, sáng chế không mất tính mới nếu được bộc lộ trong đơn đăng ký SHCN hoặc văn bằng bảo hộ SHCN do cơ quan quản lý nhà nước về SHCN công bố trường hợp việc công bố không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc đơn do người không có quyền đăng ký nộp [51]. Luật SHTT cũng đã quy định trình độ sáng tạo của sáng chế được xác định bằng các phân loại sáng chế và giải pháp kỹ thuật [51]. Thay đổi này đã đáp ứng toàn bộ yêu cầu đặt ra của Điều 18.38 Hiệp định CPTPP. Đối với tiêu chí “Ai tới trước được cấp trước - First come first serve” [34] của Hiệp định CPTPP, Việt Nam đã quy định tại điều 90 và 91 luật SHTT. Đối với các tiêu chí còn lại, Việt Nam cần quy định bổ sung về việc “công bố công khai các đơn đăng ký bảo hộ trong vòng 18 tháng kể từ ngày nộp đơn” hay căn cứ để “hủy, rút lại hoặc vô hiệu một bằng sáng chế đã cấp phải đồng thời là các căn cứ để từ chối cấp bằng sáng chế” [34]. Các tiêu chí này không làm thay đổi đáng kể pháp luật hiện nay và chỉ nhằm hỗ trợ minh bạch hóa thông tin về đăng ký sáng chế.Liên quan đến Dữ liệu bí mật hoặc Các dữ liệu khác, Hiệp định CPTPP đã đưa ra các cam kết liên quan đến nông hóa phẩm [34] và dược phẩm [34]. Đối với nông hóa phẩm, khi xin Giấy phép lưu hành cho một nông hóa phẩm mới, chủ sở hữu phải phải cung cấp các kết quả thử nghiệm hoặc dữ liệu khác chưa công bố về mức độ an toàn và hiệu quả của nông hóa phẩm đó cho Cơ quan cấp phép. Từ đó, Cơ quan cấp phép sẽ không cho phép chủ thể khác lưu hành cùng sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự trong ít nhất là 10 năm trừ khi được chủ sở hữu nông hóa phẩm đó đồng ý [34]. Quy định này cũng áp dụng trong trường hợp cấp phép lưu hành dựa trên việc nộp bằng chứng về việc đã được cấp phép lưu hành tại nước ngoài, với thời hạn bảo hộ là 10 năm kể từ ngày cấp phép lưu hành mới [34]. Việt Nam đã nội luật hoá về cách thức bảo hộ dữ liệu đối với nông hóa phẩm theo hướng Hiệp định CTPPP yêu cầu. Việt Nam cũng tích cực tham gia các dự án hỗ trợ từ các đối tác nước ngoài [18] nhằm tham khảo kinh nghiệm trong quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành nghĩa vụ về nông hóa phẩm.Hiệp định CPTPP yêu cầu các nước thành viên trước khi cấp phép lưu hành dược phẩm dựa trên các dữ liệu thử nghiệm trước đó đã được nộp, thì phải triển khai một trong hai cơ chế sau. Thứ nhất, cơ quan cấp phép phải có cơ chế để thông báo cho chủ sở hữu bằng sáng chế về việc cấp phép lưu hành để những người này chủ động bảo vệ quyền; dành thời gian và cơ hội hợp lý để chủ sở hữu bằng sáng chế thực hiện các hành động bảo vệ quyền; và trường hợp sản phẩm đang trong quá trình xin phép lưu hành bị nghi là có xâm phạm độc quyền sáng chế thì phải dành cho chủ sở hữu cơ hội và thời gian hợp lý để yêu cầu bồi thường cũng như có cơ chế hành chính hoặc tố tụng để giải quyết các yêu cầu bồi thường này [34].Đối với cơ chế thứ hai, các quốc gia thành viên của Hiệp định CPTPP phải thiết lập hoặc duy trì một cơ chế ngoài Tòa án cho phép loại trừ việc lưu hành dược phẩm nếu không được sự đồng ý của chủ sáng chế. Cơ chế này yêu cầu sự phối hợp giữa cơ quan bảo hộ sáng chế với cơ quan đăng ký lưu hành. Ngoài ra, Hiệp định CPTPP quy định thời gian bảo hộ độc quyền các dữ liệu bí mật là năm (05) năm kể từ ngày cấp phép lưu hành đối với dược phẩm có thành phần mới [34]. Thời hạn bảo hộ độc quyền đối với dược phẩm cũ không có thành phần mới mà chỉ có chỉ định mới hoặc công thức mới là ba (03) năm [34]; và đối với sinh phẩm là tám (08) năm kể từ ngày cấp phép lưu hành [34].Luật SHTT 2022 quy định khi nộp đơn xin cấp phép lưu hành, chủ sở hữu phải cung cấp kết quả thử nghiệm hoặc dữ liệu khác là bí mật kinh doanh thu được kèm đơn yêu cầu giữ bí mật. Từ đó, cơ quan có thẩm quyền có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp cần thiết để các dữ liệu đó không bị sử dụng nhằm mục đích thương mại không lành mạnh và không bị bộc lộ, trừ khi việc bộc lộ là cần thiết nhằm bảo vệ công chúng [51]. Đối với những dữ liệu bí mật đã được nộp, cơ quan có thẩm quyền không được cấp phép cho bất kỳ người nào nộp đơn muộn hơn nếu trong đơn sử dụng dữ liệu bí mật đó trong vòng mười (10) năm đố với nông hoá phẩm [51], và năm (05) năm đối với dược phẩm[51]. Thay đổi này cho phép chủ sở hữu một khoảng thời gian hợp lý để bảo vệ quyền. Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi họ phải chủ động trong việc bảo vệ quyền của mình thay vì chỉ nộp đơn cấp phép lưu hành. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền cấp phép lưu hành dược phẩm cho phép người nộp đơn sau dựa vào việc một dược phẩm hoặc dữ liệu của dược phẩm đó đã được cấp phép lưu hành để xin cấp phép lưu hành cho một dược phẩm khác thì cơ quan đó phải công bố trên trang điện tử của họ về thông tin của đơn nộp sau trong vòng năm (05) tháng trước khi dược phẩm trong đơn nộp sau được cấp phép lưu hành [51]. Đây là cơ hội và thời gian hợp lý cho phép chủ sở hữu dược phẩm đã được cấp phép lưu hành có thể yêu cầu bồi thường.Chủ văn bằng độc quyền sáng chế không phải nộp phí sử dụng văn bằng bảo hộ cho khoảng thời gian mà thủ tục đăng ký lưu hành lần đầu của dược phẩm được sản xuất theo bằng độc quyền sáng chế tại Việt Nam bị chậm [51]. Tuy vậy, cần xem xét tính khả thi của quy định này bởi pháp luật về dược chưa quy định việc cấp văn bản xác nhận về việc thủ tục đăng ký lưu hành dược phẩm bị chậm, chỉ có các quy định liên quan đến cấp mới, sửa đổi, gia hạn số đăng ký lưu hành dược phẩm. Những thay đổi này chỉ đáp ứng một phần yêu cầu của Hiệp định CPTPP khi vẫn chưa quy định đầy đủ thời hạn bảo hộ độc quyền đối với sinh phẩm hoặc dược phẩm cũ nhưng có chỉ định, liều dùng mới. Bên cạnh việc chưa quy định cơ chế giải quyết ngoài tòa án thì cơ chế thông báo cho người nộp đơn cũng chưa đáp ứng được toàn bộ yêu cầu của Hiệp định CPTPP.Cam kết về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp theo Hiệp định CPTPP có hai điểm đáng lưu ý. Một là, các thành viên phải bảo hộ đầy đủ và hiệu quả kiểu dáng công nghiệp, bao gồm cả các kiểu dáng được thể hiện ở một phần của sản phẩm hoặc một phần của một sản phẩm nằm trong tổng thể toàn bộ sản phẩm, đồng thời tuân thủ quy định của điều 25 và 26 của Hiệp định TRIPS [34]. Hai là, các thành viên phải nỗ lực trong việc tăng cường bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cũng như cải thiện chất lượng, nâng cao hiệu quả của cơ chế đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp [34]. Theo đó, kiểu dáng công nghiệp được sửa đổi “là hình dáng bên ngoài của sản phẩm hoặc bộ phận để lắp ráp thành sản phẩm phức hợp…” [51]. Hơn nữa, Luật SHTT 2022 cũng đưa ra quy định mới đối với đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp bao gồm quy định liên quan đến tài liệu; bộ ảnh chụp hoặc bản vẽ; và phẩn mô tả chi tiết sản phẩm [51].Các sửa đổi, bổ sung trên đã tuân thủ các yêu cầu đặt ra của Hiệp định CPTPP về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Đây là một thay đổi lớn khi hình dáng chi tiết bên trong của sản phẩm cũng được bảo hộ không chỉ đảm bảo việc khai thác quyền của chủ sở hữu đạt hiệu quả cao nhất mà còn là động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Hơn nữa, quy định này sẽ ngăn chặn việc sao chép sản phẩm thông qua việc chỉ thay đổi hình dáng bên ngoài mà vẫn giữ nguyên các chi tiết bên trong sản phẩm. Việt Nam cũng đã tham gia Thỏa ước La Hay tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nộp đơn đăng ký quốc tế về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Các chủ thể sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức, và tài chính bởi chỉ cần đăng ký một thủ tục nhưng được xem xét bảo hộ tại gần 70 quốc gia trên thế giới.Nói tóm lại, Việt Nam đã đáp ứng được cơ bản các yêu cầu nội luật hóa cam kết quyền SHCN theo Hiệp định CPTPP. Mặc dù, vẫn còn một số cam kết chưa hoặc được nội luật hóa một phần nhưng điều này là phù hợp với lộ trình thực hiện cam kết của Việt Nam cũng như điều kiện thực tế của đất nước. Đây cũng là hành lang pháp lý cho phép cơ quan chức năng và chủ sở hữu bảo hộ quyền SHTT hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cần nhanh chóng làm rõ, hướng dẫn chi tiết những sửa đổi, bổ sung của Luật SHTT tại các văn bản dưới luật nhằm tránh tình trạng áp dụng sai hoặc quy định chồng chéo.Tương tự thực thi cam kết về QTG và QLQ, đối với quyền SHCN theo Hiệp định CPTPP, Việt Nam cũng đã triển khai ba nhiệm vụ. Mục tiêu đầu tiên được thực hiện tương tự như QTG và QLQ khi có sự tham gia của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ban nghành liên quan [54]. Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về SHCN [64]. Năm 2021, Việt Nam đã chính thức gia nhập Hiệp ước Budapest [19] tạo điều kiện cho việc công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh nhằm tiến hành các thủ tục về sáng chế, đồng thời thể hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia CPTPP [65]. Năm 2020, có 62 văn bản chỉ đạo điều hành, hướng dẫn tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật về SHCN được ban hành bởi 27 địa phương. Đồng thời, đã có tất cả 36 cuộc hội thảo, tọa đàm, 173 lớp tập huấn với hơn 20.000 lượt người tham dự, và hàng trăm lượt tuyên truyền phổ biến kiến thức, chính sách và pháp luật về SHTT trên các phương tiện thông tin đại chúng nói trên [20]. Tuy vậy, các địa phương vẫn cần tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức triển khai và hướng dẫn thi hành các chính sách, pháp luật về SHCN nhằm đưa các chính sách đó thực sự đi vào cuộc sống, phù hợp với quy mô, điều kiện thực tế của mỗi địa phương. Đây là giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy các hoạt động quản lý nhà nước về SHCN tại địa phương cũng như tăng cường các biện pháp phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đăng ký, bảo hộ quyền SHCN [20].Thủ tướng Chính phủ cũng đặt mục tiêu cải thiện các chỉ số về SHTT như số đơn đăng ký sáng chế tăng 16-18%/năm; đối với kiểu dáng công nghiệp là 6-8%/năm; và nhãn hiệu là 8-10%/năm [64]. Cuối năm 2020, Cục SHTT đã công bố gần 72.000 đơn đăng ký xác lập quyền SHCN cho các đối tượng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu [4].Tuy nhiên, số lượng đơn đăng ký SHCN chủ yếu tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh do đây là hai trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị lớn nhất cả nước, tập trung rất nhiều doanh nghiệp lớn, trường đại học và viện nghiên cứu. Bên cạnh đó, số liệu so sánh qua từng năm cho thấy tốc độ tăng trưởng đơn đăng ký SHCN của đa số các tỉnh/thành phố trong cả nước còn khá chậm. Chính vì vậy, cần phải có các biện pháp nhằm gia tăng hiệu quả của việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về SHCN cho các địa phương có số lượng đơn đăng ký SHCN còn khiêm tốn, góp phần gia tăng số lượng đơn đăng ký SHCN từ các khu vực này [21].Hiện nay, Việt Nam chỉ có hai Sở KH&CN tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có phòng chuyên trách quản lý về SHCN. Về nhân sự, Việt Nam có bốn mươi bốn (44) cán bộ chuyên trách và một trăm mười tám (118) cán bộ kiêm nhiệm thực hiện công tác quản lý nhà nước về SHCN tương đương với tỉ lệ không phẩy bảy (0.7) cán bộ chuyên trách/ địa phương [20]. Tỉ lệ này cho thấy sự thiếu hụt nghiêm trọng về mặt nhân sự trong công tác quản lý nhà nước về SHCN, vì vậy đòi hỏi phải có sự bổ sung lực lượng cán bộ chuyên trách về SHCN và đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ.Việt Nam thực hiện mục tiêu thứ hai tương tự như đối với QTG và QLQ. Bộ Công Thương là đại diện chính của Việt Nam tiếp tục khẳng định quyết tâm thực thi đầy đủ Hiệp định CPTPP trong đó bao gồm các cam kết về quyền SHCN một cách đầy đủ và đúng đắn, nhằm đạt được kết quả như các thành viên đã đàm phán.Đối với nhiệm vụ thứ ba, Việt Nam đã tích cực hợp tác với các quốc gia thành viên CPTPP trong đó có Nhật Bản. Năm 2021, Nhật Bản đã cấp CDĐL cho vải thiều Lục Ngạn và thanh long Bình Thuận, tạo điều kiện thuận lợi cho hai mặt hàng nông sản này khi bước sang các thị trường khác bởi Nhật Bản là một thị trường vô cùng khó tính [23]. Với sự hỗ trợ từ Nhật Bản, Cục SHTT đã chính thức triển khai dự án “Nâng cao năng lực xử lý đơn sở hữu công nghiệp tại Cục Sở hữu trí tuệ” [24] nhằm xây dựng tài liệu kiểm soát chất lượng thẩm định đơn sáng chế, hoàn thiện quy chế thẩm định đơn sáng chế hiện có và bổ sung hướng dẫn thẩm định đơn sáng chế trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật và phần mềm máy tính.Một thành viên khác của CPTPP là Canada cũng tích cực hỗ trợ Việt Nam thông qua dự án “Hỗ trợ thực thi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ” [25]. Dự án cung cấp tài liệu hướng dẫn gồm các khái niệm cơ bản về SHTT, các quyền SHTT trực tiếp gắn với doanh nghiệp vừa và nhỏ, các vấn đề về SHTT trong Hiệp định CPTPP, đặc biệt là tài liệu giới thiệu các chiến lược SHTT của doanh nghiệp để có thể hưởng lợi từ Hiệp định CPTPP.Theo: Nguyễn Khắc ChinhLink luận văn: https://docs.google.com/document/d/1l51iHjaYdrdeKCzZAwzxe-GKl573QTKe/edit