0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file6486a7bed6b84-BẢO-HỘ-NHÃN-HIỆU-NỔI-TIẾNG-TẠI-VIỆT-NAM-.jpg.webp

BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG TẠI VIỆT NAM

 

1. Định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng

Nhãn hiệu nổi tiếng là một thuật ngữ đã được biết đến từ rất lâu. Tuy nhiên, tại Việt Nam, định nghĩa pháp lý đầu tiên về nhãn hiệu nổi tiếng lại xuất hiện khá muộn. Cụ thể, năm 2001, Nghị định số 06/2001/NĐ- CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp là văn bản pháp luật đầu tiên đưa ra một định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng. Theo điểm b khoản 8 Điều 2 của Nghị định này thì: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi”. Tuy nhiên, định nghĩa này có nhiều điểm bất cập. Thứ nhất, sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng có thể là hàng hóa hoặc dịch vụ nên định nghĩa “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá...” chưa thật sự phù hợp. Thứ hai, mức độ “biết đến một cách rộng rãi” của nhãn hiệu nổi tiếng được xác định như thế nào? Hay nói cách khác, định nghĩa này chưa xác định được phạm vi nổi tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng. Thứ ba, Nghị định số 06/2001/NĐ-CP chỉ định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng mà không đưa ra các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng.

Đến năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật Sở hữu trí tuệ trong đó có nêu ra định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng tại khoản 20 Điều 4 cùng các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 75

Theo định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng tại khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019): “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Trong định nghĩa này, có hai vấn đề mà tác giả muốn đề cập đến:

Thứ nhất, theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, “người tiêu dùng” ở Việt Nam được hiểu là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức. Câu hỏi được đặt ra là phạm vi người tiêu dùng trong định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng được xác định như thế nào: Toàn bộ người tiêu dùng trên toàn lãnh thổ Việt Nam hay chỉ những người tiêu dùng có liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đó?

Có quan điểm cho rằng, để đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng, chúng ta chỉ nên đánh giá ở người tiêu dùng gắn với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nhất định. Chẳng hạn, đối với một nhãn hiệu của dụng cụ âm nhạc thì người tiêu dùng chính là những người sử dụng nhạc cụ chứ không nên mở rộng đến người khác”. Bởi vì phạm vi người tiêu dùng là rất đa dạng, với rất nhiều ngành nghề, độ tuổi, vùng miền. Ví dụ, một nhãn hiệu trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý được những người hoạt động trong lĩnh vực này hoặc có liên quan đến lĩnh vực này biết đến rộng rãi, nhưng lại không phổ biến với tuyệt đại đa số người tiêu dùng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nếu chỉ giới hạn ở bộ phận người tiêu dùng gắn với dịch vụ này thì nhãn hiệu đó là nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy nhiên, nếu phạm vi người tiêu dùng ở đây được hiểu là toàn bộ người tiêu dùng ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, vùng miền thì nhãn hiệu này lại không đáp ứng định nghĩa về một nhãn hiệu nổi tiếng. Do vậy, pháp luật nên quy định rõ vấn đề này để tạo thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế.

Theo quy định tại Điều 18.22 Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), “trong việc xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng tại một bên thành viên, bên đó không cần yêu cầu danh tiếng của nhãn hiệu phải vượt ra ngoài bộ phận công chúng thường giao dịch với các hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng”. Như vậy, theo Hiệp định CPTPP, việc xác định nhãn hiệu nổi tiếng chỉ nên giới hạn trong phạm vi người tiêu dùng có liên quan đến nhãn hiệu đó mà không nên mở rộng ra toàn bộ người tiêu dùng. Ngoài ra, Điều 16.2 Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) nhấn mạnh: “Để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có nổi tiếng hay không, phải xem xét danh tiếng của nhãn hiệu hàng hoá đó trong bộ phận công chúng có liên quan, kể cả danh tiếng tại nước thành viên tương ứng đạt được nhờ hoạt động quảng cáo nhãn hiệu hàng hoá đó”. Những quy định này cần thiết phải

được nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam. Tại Pháp, án lệ cũng thể hiện rằng, sự nổi tiếng của một nhãn hiệu phải được đánh giá bởi bộ phận công chúng có liên quan đến hàng hóa hay dịch vụ mang nhãn hiệu này. Một nhãn hiệu được xem là nổi tiếng thì phải được biết đến bởi phần lớn bộ phận công chúng này, trên toàn bộ lãnh thổ hay hầu hết lãnh thổ.

Thứ hai, theo định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng ở khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, phạm vi không gian “được biết đến rộng rãi” của nhãn hiệu nổi tiếng là trên toàn lãnh thổ Việt Nam, không nhắc tới phạm vi toàn thế giới. Điều này có nghĩa là, một nhãn hiệu dù nổi tiếng trên thế giới, nhưng người tiêu dùng tại Việt Nam không biết đến rộng rãi thì nó cũng không được xem là nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Có quan điểm cho rằng, điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nước ngoài có nhãn hiệu được biết đến rộng rãi ở rất nhiều quốc gia khác, nhưng khi đầu tư tại Việt Nam lại không thể chứng minh nhãn hiệu này được người tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam biết đến một cách rộng rãi. Tuy nhiên, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng, một nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam thì điều quan trọng là nhãn hiệu đó phải được người tiêu dùng biết đến rộng rãi ở Việt Nam. Bằng chứng về mức độ công nhận rộng rãi đối với một nhãn hiệu cụ thể của công chúng tiêu dùng nói chung ở một nước khác không thể thay thế được cho công chúng tiêu dùng tại nước mà nhãn hiệu đó được xem xét. Một nhãn hiệu được công nhận nổi tiếng tại Việt Nam không nhất thiết cũng phải nổi tiếng tại các quốc gia khác và một nhãn hiệu nổi tiếng tại các quốc gia khác không có nghĩa nó đương nhiên được coi là nổi tiếng tại Việt Nam.

2. Cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng

2.1. Căn cứ xác lập quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng

Nhãn hiệu thông thường được xác lập quyền trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu đã được sử dụng liên tục, trong khoảng thời gian dài cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi và do vậy vẫn được bảo hộ mà không phải thông qua thủ tục đăng ký nữa. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiệp định CPTPP mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, khoản 1 Điều 18.22 Hiệp định này quy định: “Không bên nào được quy định rằng điều kiện để xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng là nhãn hiệu đó đã được đăng ký tại bên đó hoặc trong một lãnh thổ tài phán khác [...]”.

2.2. Thời hạn bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm. Khi gia hạn văn bằng, chủ sở hữu phải nộp lệ phí gia hạn hiệu lực. Khác với nhãn hiệu thông thường, thời hạn bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là vô thời hạn (hay không xác định thời hạn). Trước kia, khoản 1 Điều 10 Nghị định số 06/2001/NĐ-CP có quy định: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng”. Tuy nhiên, văn bản pháp luật này hiện không còn hiệu lực. Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành không quy định một cách minh thị thời hạn bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng. Có thể hiểu nhãn hiệu nổi tiếng được pháp luật bảo hộ vô thời hạn. Mặc dù vậy, pháp luật cũng nên có quy định liên quan đến việc chấm dứt bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn như trong trường hợp nhãn hiệu này không còn đáp ứng được các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 75 hoặc khi nhãn hiệu này trở thành tên gọi chung cho một sản phẩm, dịch vụ nhất định (như trường hợp của aspirin, bikini, jeep...). Về điểm này, chúng ta có thể tham khảo quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ Cộng hòa Pháp. Điều L.714-6 Luật này quy định rằng: “Chủ sở hữu nhãn hiệu bị mất quyền đối nhãn hiệu của mình trong trường hợp nhãn hiệu này trở thành tên gọi thông thường trong thương mại của sản phẩm hoặc dịch vụ”.

3. Quy định của pháp luật Việt Nam về đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng

Trước ngày 01/7/2006 (trước thời điểm có hiệu lực của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005), để một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng, chủ sở hữu nhãn hiệu phải nộp đơn yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ công nhận nhãn hiệu là nhãn hiệu nổi tiếng. Theo đó, khoản 1 Điều 10 Nghị định số 06/2001/NĐ-CP quy định rằng: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng”. Điều này có nghĩa, một nhãn hiệu được xem là nhãn hiệu nổi tiếng kể từ khi nó được công nhận trong Quyết định của Cục Sở hữu trí tuệ. Kể từ thời điểm Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 bắt đầu có hiệu lực (ngày 01/7/2006), Nghị định số 06/2001/NĐ- CP đã bị bãi bỏ. Hiện nay, trong các vụ tranh chấp, nếu đương sự cho rằng nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng thì phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh. Chẳng hạn, trong vụ tranh chấp giữa nguyên đơn là Công ty Bayerische Motoren Werke Aktiengesellschaft (gọi tắt là Công ty BMW) và bị đơn là ông Nguyễn Mạnh T, nguyên đơn đã đưa ra rất nhiều chứng cứ chứng minh để thuyết phục tòa án rằng nhãn hiệu BMW là nhãn hiệu nổi tiếng: “Qua quá trình phát triển từ ngày thành lập đến nay, Công ty BMW đã trở thành một trong những công ty hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực phát triển, sản xuất và phân phối các sản phẩm trong ngành ô tô, mô tô. Nhãn hiệu BMW đã được Công ty BMW đăng ký bảo hộ tại Việt Nam theo các đăng ký quốc tế vào các ngày 31/01/1950, 16/7/1980, 22/12/1995, 29/6/1984 và 26/3/1997. Nhãn hiệu BMW được bình chọn là một trong những thương hiệu nổi tiếng và uy tín nhất thế giới. Năm 2015, Interbrand xếp BMW vị trí số 11; Global RepTrak 100 của Reputation Institute xếp BMW đứng đầu. Tại Việt Nam, nhãn hiệu BMW được biết đến rộng rãi và phổ biến cho các sản phẩm ô tô, xe máy và phụ kiện, phụ tùng ô tô, xe máy, hội đủ điều kiện khẳng định BMW là nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định tại khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ”

Các tài liệu, thông tin dùng để chứng minh sự nổi tiếng của nhãn hiệu được hướng dẫn bởi Thông tư số 01/2007/TT- BKHCN ngày 14/02/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ, bao gồm “phạm vi, quy mô, mức độ, tính liên tục của việc sử dụng nhãn hiệu, trong đó có thuyết minh về nguồn gốc, lịch sử, thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; số lượng quốc gia nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc được thừa nhận là nhãn hiệu nổi tiếng; danh mục các loại hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu; phạm vi lãnh thổ mà nhãn hiệu được lưu hành, doanh số bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ; số lượng hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được sản xuất, tiêu thụ; giá trị tài sản của nhãn hiệu, giá chuyển nhượng hoặc chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu; đầu tư, chi phí cho quảng cáo, tiếp thị nhãn hiệu, kể cả cho việc tham gia các cuộc triển lãm quốc gia và quốc tế; các vụ việc xâm phạm, tranh chấp và các quyết định, phán quyết của toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền; số liệu khảo sát người tiêu dùng biết đến nhãn hiệu thông qua mua bán, sử dụng và quảng cáo, tiếp thị; xếp hạng, đánh giá uy tín nhãn hiệu của tổ chức quốc gia, quốc tế, phương tiện thông tin đại chúng; giải thưởng, huy chương mà nhãn hiệu đã đạt được; kết quả giám định của tổ chức giám định về sở hữu trí tuệ”.

Giống như ở Việt Nam, tại nhiều quốc gia khác, trong đó có Hoa Kỳ, một nhãn hiệu được công nhận nổi tiếng hay không sẽ do các bên tự chứng minh khi xảy ra tranh chấp tại cơ quan có thẩm quyền. Một ví dụ điển hình có thể kể đến đó là vụ việc giữa Starbucks U.S. Brands, LLC và Marshall S. Ruben. Trong đó, Starbucks U.S. Brands, LLC đã đưa ra các chứng cứ để chứng minh sự nổi tiếng của nhãn hiệu “Starbucks Coffee” tại Hoa Kỳ: “Starbucks đã mở cửa hàng bán lẻ đầu tiên của họ tại chợ Pike Place ở Seattle, Washington vào năm 1971. Starbucks đã phát triển lên hơn 5.000 cửa hàng và phát triển hệ thống nhượng quyền thương mại trên khắp Hoa Kỳ, biến Starbucks thành một trong các nhà cung cấp lớn nhất và nổi tiếng nhất về các sản phẩm cà phê ở Mỹ. Hàng chục triệu khách hàng tiếp xúc với nhãn hiệu Starbucks mỗi ngày. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2004, Starbucks đã chi hơn 150 triệu USD đê marketing cho nhãn hiệu Starbucks Coffee. [...] Starbucks cũng điều hành một trang web với trung bình 350.000 lượt truy cập website trong mỗi tuần. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2004, Starbucks có doanh thu hơn 10 tỷ USD. Chỉ riêng năm 2004, doanh thu bán hàng Starbucks đạt 4 tỷ USD. [...] Từ năm 2004, gần một nửa số người tiêu dùng Mỹ đã đến thăm các cửa hàng của Starbucks”14. Cuối cùng, Cơ quan về Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) đã công nhận Starbucks Coffee là nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu “Lessbucks Coffee” bị coi là tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng này.

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, những tiêu chí nào được xem xét khi đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng?

Căn cứ vào quy định tại Điều 75 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, các tiêu chí được xem xét khi đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng, bao gồm:

(i)   Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo;

(ii) Phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành;

(ii) Doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp;

(iv) Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu;

(v)   Uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;

(vi) Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;

(vii)   Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng;

(viii) Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu.

Quy định của Điều 75 chưa có sự thống nhất với định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng tại khoản 20 Điều 4. Theo định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng được nêu tại khoản 20 Điều 4 thì phạm vi nổi tiếng của nhãn hiệu là tại Việt Nam: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên, theo khoản 6 và khoản 7 Điều 75, đánh giá sự nổi tiếng của nhãn hiệu thì phạm vi nổi tiếng được mở rộng hơn, bởi vì phải xem xét tiêu chí số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu và số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng. Ví dụ, nếu căn cứ theo khoản 20 Điều 4 thì “ABC” (nhãn hiệu giả định) là nhãn hiệu nổi tiếng vì được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đối chiếu với các tiêu chí đánh giá tại Điều 75 thì “ABC” có thể không đáp ứng được tiêu chí về số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng. Như vậy liệu “ABC” có được xem là nhãn hiệu nổi tiếng hay không? Ngoài ra, Điều 75 cũng không chỉ rõ rằng để được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng thì phải đáp ứng được tất cả 8 tiêu chí được liệt kê hay chỉ cần thỏa mãn một số tiêu chí trong số đó; những tiêu chí nào là bắt buộc hay bắt buộc tất cả các tiêu chí trên? Ngoài những tiêu chí mà Luật liệt kê, liệu rằng có thể xem xét các tiêu chí khác có liên quan hay không? Chính những vướng mắc và sự nhập nhằng trong quy định liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng cũng như chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, nên tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc xác định nhãn hiệu nổi tiếng.

4.   Kinh nghiệm nước ngoài về đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng

Hiệp định CPTPP và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam EU (EVFTA) đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Khuyến nghị chung về các quy định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được Hội đồng Liên hiệp Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Đại hội đồng Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thông qua. Tại Điều 2 Khuyến nghị này liệt kê các yếu tố được xem xét, đánh giá để kết luận một nhãn hiệu có phải là nhãn hiệu nổi tiếng hay không. Theo đó, để xác định một nhãn hiệu có được coi là nhãn hiệu nổi tiếng hay không, cơ quan có thẩm quyền sẽ đánh giá tùy từng trường hợp cụ thể, trong đó chú ý các yếu tố sau:

(1)   Mức độ biết đến và thừa nhận nhãn hiệu trong công chúng;

(2)   Thời gian, mức độ và phạm vi địa lý mà nhãn hiệu được sử dụng;

(3) Thời gian, mức độ và phạm vi địa lý mà nhãn hiệu được xúc tiến, bao gồm việc quảng cáo, giới thiệu tại các buổi triển lãm, trưng bày các sản phẩm hay dịch vụ mang nhãn hiệu;

(4)   Thời gian và phạm vi địa lý của việc đăng ký hay yêu cầu đăng ký nhãn hiệu;

(5) Việc thực hiện hiệu quả các quyền được trao bởi nhãn hiệu, đặc biệt là mức độ mà nhãn hiệu đã được các cơ quan có thẩm quyền thừa nhận là nhãn hiệu nổi tiếng;

  (6)   Giá trị gắn liền với nhãn hiệu.

Nhìn chung, các tiêu chí này cũng hướng đến việc xem xét mức độ phổ biến và được biết đến của nhãn hiệu theo thời gian và không gian địa lý. Một nhãn hiệu được xem là nổi tiếng phải được đa số người tiêu dùng biết đến. Tuy nhiên, Điều 2 của Khuyến nghị không chỉ đưa ra các tiêu chí đánh giá, mà còn hướng dẫn cách đánh giá như sau: Các tiêu chí được liệt kê chỉ là những chỉ dẫn giúp cơ quan có thẩm quyền xác định xem một nhãn hiệu có được coi là nhãn hiệu nổi tiếng hay không chứ không phải là những yêu cầu định sẵn để đi đến kết luận. Việc kết luận còn phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Trong một số trường hợp, tất cả các yếu tố được liệt kê có thể có liên quan, nhưng trong nhiều trường hợp khác, chỉ một số yếu tố trong số đó nên được xem xét. Những tiêu chí để xác định nhãn hiệu nổi tiếng không bị giới hạn ở những tiêu chí đã được liệt kê ở trên. Do vậy, trong nhiều trường hợp, việc đánh giá có thể dựa trên những tiêu chí khác đã không được liệt kê. Những tiêu chí khác này có thể được xem xét độc lập hoặc trong mối liên hệ với những tiêu chí đã được liệt kê. Đối chiếu với pháp luật Việt Nam, Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 mới chỉ liệt kê các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng mà thiếu đi những chỉ dẫn cần thiết như trên.

Trong pháp luật Hoa Kỳ, Đạo luật về nhãn hiệu của Hoa Kỳ năm 2006 quy định khi quyết định liệu một nhãn hiệu có được coi là nhãn hiệu nổi tiếng hay không, tòa án sẽ xem xét “mọi yếu tố liên quan, trong đó bao gồm” 4 yếu tố đánh giá cụ thể sau:

(i) Thời gian, mức độ và phạm vi quảng cáo và mức độ phổ biến của nhãn hiệu, cho dù việc quảng cáo hoặc phổ biến đó do chủ sở hữu nhãn hiệu hay các bên thứ ba thực hiện;

(ii) Số lượng, khối lượng và phạm vi địa lý của việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ được chào bán với nhãn hiệu đó;

   (iii) Mức độ công nhận thực tế của nhãn hiệu;

  (iv) Nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ hay chura.

Điều này có nghĩa là, tòa án có thể xem xét các yếu tố khác ngoài 4 yếu tố đã được Luật liệt kê để kết luận một nhãn hiệu có được xem là nhãn hiệu nổi tiếng hay không.

Trong pháp luật của Liên minh châu Âu, để đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng, tòa án cần tiến hành xem xét nhiều yếu tố, đặc biệt là mức độ thừa nhận nhãn hiệu của bộ phận công chúng có liên quan, thị phần của sản phẩm mang nhãn hiệu, vị trí của nhãn hiệu trên thị trường, mức độ sử dụng của nhãn hiệu, phạm vi địa lý nơi nhãn hiệu được sử dụng, thời gian sử dụng, các hoạt động quảng cáo nhãn hiệu và các yếu tố khác có liên quan (như các chứng nhận hay giải thưởng). Việc đánh giá này là tùy từng trường hợp cụ thể (au cas par cas), trong đó không chỉ căn cứ vào mức độ thừa nhận nhãn hiệu, mà còn xem xét tất cả các yếu tố khác có khả năng cung cấp các thông tin về hiệu suất của nhãn hiệu trên thị trường.

Những quy định trên là nguồn thông tin có giá trị tham khảo cho Việt Nam liên quan đến việc đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng. Thiết nghĩ, các tiêu chí được đặt ra tại Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 nên được vận dụng một cách linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể để đánh giá và đưa ra kết luận liệu rằng nhãn hiệu đang xem xét có được xem là nhãn hiệu nổi tiếng hay không. Không nên cứng nhắc khi đánh giá mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu chỉ giới hạn trong các yếu tố được liệt kê ở Điều 75 mà không xem xét đến các yếu tố khác cho dù chúng có liên quan. Cũng không nên cứng nhắc cho rằng, để được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng thì nhãn hiệu phải đáp ứng tất cả các tiêu chí tại Điều 75.

Cuối cùng, việc hoàn thiện các quy định liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng là rất cần thiết trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Nguồn: Nhà nước và Pháp luật Số 2/2021

https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/313836/CVv225S220

21056.pdf

Theo: Nguyễn Trọng Luân

Link tài liệu: 

https://docs.google.com/document/d/153XqVcUmlfUfmw4MTvXqWzuGfbfUO3fa/edit

avatar
Đặng Quỳnh
747 ngày trước
BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG TẠI VIỆT NAM
 1. Định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếngNhãn hiệu nổi tiếng là một thuật ngữ đã được biết đến từ rất lâu. Tuy nhiên, tại Việt Nam, định nghĩa pháp lý đầu tiên về nhãn hiệu nổi tiếng lại xuất hiện khá muộn. Cụ thể, năm 2001, Nghị định số 06/2001/NĐ- CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp là văn bản pháp luật đầu tiên đưa ra một định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng. Theo điểm b khoản 8 Điều 2 của Nghị định này thì: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi”. Tuy nhiên, định nghĩa này có nhiều điểm bất cập. Thứ nhất, sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng có thể là hàng hóa hoặc dịch vụ nên định nghĩa “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá...” chưa thật sự phù hợp. Thứ hai, mức độ “biết đến một cách rộng rãi” của nhãn hiệu nổi tiếng được xác định như thế nào? Hay nói cách khác, định nghĩa này chưa xác định được phạm vi nổi tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng. Thứ ba, Nghị định số 06/2001/NĐ-CP chỉ định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng mà không đưa ra các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng.Đến năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật Sở hữu trí tuệ trong đó có nêu ra định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng tại khoản 20 Điều 4 cùng các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 75Theo định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng tại khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019): “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Trong định nghĩa này, có hai vấn đề mà tác giả muốn đề cập đến:Thứ nhất, theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, “người tiêu dùng” ở Việt Nam được hiểu là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức. Câu hỏi được đặt ra là phạm vi người tiêu dùng trong định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng được xác định như thế nào: Toàn bộ người tiêu dùng trên toàn lãnh thổ Việt Nam hay chỉ những người tiêu dùng có liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đó?Có quan điểm cho rằng, để đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng, chúng ta chỉ nên đánh giá ở người tiêu dùng gắn với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nhất định. Chẳng hạn, đối với một nhãn hiệu của dụng cụ âm nhạc thì người tiêu dùng chính là những người sử dụng nhạc cụ chứ không nên mở rộng đến người khác”. Bởi vì phạm vi người tiêu dùng là rất đa dạng, với rất nhiều ngành nghề, độ tuổi, vùng miền. Ví dụ, một nhãn hiệu trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý được những người hoạt động trong lĩnh vực này hoặc có liên quan đến lĩnh vực này biết đến rộng rãi, nhưng lại không phổ biến với tuyệt đại đa số người tiêu dùng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nếu chỉ giới hạn ở bộ phận người tiêu dùng gắn với dịch vụ này thì nhãn hiệu đó là nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy nhiên, nếu phạm vi người tiêu dùng ở đây được hiểu là toàn bộ người tiêu dùng ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, vùng miền thì nhãn hiệu này lại không đáp ứng định nghĩa về một nhãn hiệu nổi tiếng. Do vậy, pháp luật nên quy định rõ vấn đề này để tạo thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế.Theo quy định tại Điều 18.22 Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), “trong việc xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng tại một bên thành viên, bên đó không cần yêu cầu danh tiếng của nhãn hiệu phải vượt ra ngoài bộ phận công chúng thường giao dịch với các hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng”. Như vậy, theo Hiệp định CPTPP, việc xác định nhãn hiệu nổi tiếng chỉ nên giới hạn trong phạm vi người tiêu dùng có liên quan đến nhãn hiệu đó mà không nên mở rộng ra toàn bộ người tiêu dùng. Ngoài ra, Điều 16.2 Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) nhấn mạnh: “Để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có nổi tiếng hay không, phải xem xét danh tiếng của nhãn hiệu hàng hoá đó trong bộ phận công chúng có liên quan, kể cả danh tiếng tại nước thành viên tương ứng đạt được nhờ hoạt động quảng cáo nhãn hiệu hàng hoá đó”. Những quy định này cần thiết phảiđược nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam. Tại Pháp, án lệ cũng thể hiện rằng, sự nổi tiếng của một nhãn hiệu phải được đánh giá bởi bộ phận công chúng có liên quan đến hàng hóa hay dịch vụ mang nhãn hiệu này. Một nhãn hiệu được xem là nổi tiếng thì phải được biết đến bởi phần lớn bộ phận công chúng này, trên toàn bộ lãnh thổ hay hầu hết lãnh thổ.Thứ hai, theo định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng ở khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, phạm vi không gian “được biết đến rộng rãi” của nhãn hiệu nổi tiếng là trên toàn lãnh thổ Việt Nam, không nhắc tới phạm vi toàn thế giới. Điều này có nghĩa là, một nhãn hiệu dù nổi tiếng trên thế giới, nhưng người tiêu dùng tại Việt Nam không biết đến rộng rãi thì nó cũng không được xem là nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Có quan điểm cho rằng, điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nước ngoài có nhãn hiệu được biết đến rộng rãi ở rất nhiều quốc gia khác, nhưng khi đầu tư tại Việt Nam lại không thể chứng minh nhãn hiệu này được người tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam biết đến một cách rộng rãi. Tuy nhiên, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng, một nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam thì điều quan trọng là nhãn hiệu đó phải được người tiêu dùng biết đến rộng rãi ở Việt Nam. Bằng chứng về mức độ công nhận rộng rãi đối với một nhãn hiệu cụ thể của công chúng tiêu dùng nói chung ở một nước khác không thể thay thế được cho công chúng tiêu dùng tại nước mà nhãn hiệu đó được xem xét. Một nhãn hiệu được công nhận nổi tiếng tại Việt Nam không nhất thiết cũng phải nổi tiếng tại các quốc gia khác và một nhãn hiệu nổi tiếng tại các quốc gia khác không có nghĩa nó đương nhiên được coi là nổi tiếng tại Việt Nam.2. Cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng2.1. Căn cứ xác lập quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếngNhãn hiệu thông thường được xác lập quyền trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu đã được sử dụng liên tục, trong khoảng thời gian dài cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi và do vậy vẫn được bảo hộ mà không phải thông qua thủ tục đăng ký nữa. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiệp định CPTPP mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, khoản 1 Điều 18.22 Hiệp định này quy định: “Không bên nào được quy định rằng điều kiện để xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng là nhãn hiệu đó đã được đăng ký tại bên đó hoặc trong một lãnh thổ tài phán khác [...]”.2.2. Thời hạn bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếngTheo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm. Khi gia hạn văn bằng, chủ sở hữu phải nộp lệ phí gia hạn hiệu lực. Khác với nhãn hiệu thông thường, thời hạn bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là vô thời hạn (hay không xác định thời hạn). Trước kia, khoản 1 Điều 10 Nghị định số 06/2001/NĐ-CP có quy định: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng”. Tuy nhiên, văn bản pháp luật này hiện không còn hiệu lực. Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành không quy định một cách minh thị thời hạn bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng. Có thể hiểu nhãn hiệu nổi tiếng được pháp luật bảo hộ vô thời hạn. Mặc dù vậy, pháp luật cũng nên có quy định liên quan đến việc chấm dứt bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn như trong trường hợp nhãn hiệu này không còn đáp ứng được các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 75 hoặc khi nhãn hiệu này trở thành tên gọi chung cho một sản phẩm, dịch vụ nhất định (như trường hợp của aspirin, bikini, jeep...). Về điểm này, chúng ta có thể tham khảo quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ Cộng hòa Pháp. Điều L.714-6 Luật này quy định rằng: “Chủ sở hữu nhãn hiệu bị mất quyền đối nhãn hiệu của mình trong trường hợp nhãn hiệu này trở thành tên gọi thông thường trong thương mại của sản phẩm hoặc dịch vụ”.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về đánh giá nhãn hiệu nổi tiếngTrước ngày 01/7/2006 (trước thời điểm có hiệu lực của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005), để một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng, chủ sở hữu nhãn hiệu phải nộp đơn yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ công nhận nhãn hiệu là nhãn hiệu nổi tiếng. Theo đó, khoản 1 Điều 10 Nghị định số 06/2001/NĐ-CP quy định rằng: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng”. Điều này có nghĩa, một nhãn hiệu được xem là nhãn hiệu nổi tiếng kể từ khi nó được công nhận trong Quyết định của Cục Sở hữu trí tuệ. Kể từ thời điểm Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 bắt đầu có hiệu lực (ngày 01/7/2006), Nghị định số 06/2001/NĐ- CP đã bị bãi bỏ. Hiện nay, trong các vụ tranh chấp, nếu đương sự cho rằng nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng thì phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh. Chẳng hạn, trong vụ tranh chấp giữa nguyên đơn là Công ty Bayerische Motoren Werke Aktiengesellschaft (gọi tắt là Công ty BMW) và bị đơn là ông Nguyễn Mạnh T, nguyên đơn đã đưa ra rất nhiều chứng cứ chứng minh để thuyết phục tòa án rằng nhãn hiệu BMW là nhãn hiệu nổi tiếng: “Qua quá trình phát triển từ ngày thành lập đến nay, Công ty BMW đã trở thành một trong những công ty hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực phát triển, sản xuất và phân phối các sản phẩm trong ngành ô tô, mô tô. Nhãn hiệu BMW đã được Công ty BMW đăng ký bảo hộ tại Việt Nam theo các đăng ký quốc tế vào các ngày 31/01/1950, 16/7/1980, 22/12/1995, 29/6/1984 và 26/3/1997. Nhãn hiệu BMW được bình chọn là một trong những thương hiệu nổi tiếng và uy tín nhất thế giới. Năm 2015, Interbrand xếp BMW vị trí số 11; Global RepTrak 100 của Reputation Institute xếp BMW đứng đầu. Tại Việt Nam, nhãn hiệu BMW được biết đến rộng rãi và phổ biến cho các sản phẩm ô tô, xe máy và phụ kiện, phụ tùng ô tô, xe máy, hội đủ điều kiện khẳng định BMW là nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định tại khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ”Các tài liệu, thông tin dùng để chứng minh sự nổi tiếng của nhãn hiệu được hướng dẫn bởi Thông tư số 01/2007/TT- BKHCN ngày 14/02/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ, bao gồm “phạm vi, quy mô, mức độ, tính liên tục của việc sử dụng nhãn hiệu, trong đó có thuyết minh về nguồn gốc, lịch sử, thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; số lượng quốc gia nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc được thừa nhận là nhãn hiệu nổi tiếng; danh mục các loại hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu; phạm vi lãnh thổ mà nhãn hiệu được lưu hành, doanh số bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ; số lượng hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được sản xuất, tiêu thụ; giá trị tài sản của nhãn hiệu, giá chuyển nhượng hoặc chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu; đầu tư, chi phí cho quảng cáo, tiếp thị nhãn hiệu, kể cả cho việc tham gia các cuộc triển lãm quốc gia và quốc tế; các vụ việc xâm phạm, tranh chấp và các quyết định, phán quyết của toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền; số liệu khảo sát người tiêu dùng biết đến nhãn hiệu thông qua mua bán, sử dụng và quảng cáo, tiếp thị; xếp hạng, đánh giá uy tín nhãn hiệu của tổ chức quốc gia, quốc tế, phương tiện thông tin đại chúng; giải thưởng, huy chương mà nhãn hiệu đã đạt được; kết quả giám định của tổ chức giám định về sở hữu trí tuệ”.Giống như ở Việt Nam, tại nhiều quốc gia khác, trong đó có Hoa Kỳ, một nhãn hiệu được công nhận nổi tiếng hay không sẽ do các bên tự chứng minh khi xảy ra tranh chấp tại cơ quan có thẩm quyền. Một ví dụ điển hình có thể kể đến đó là vụ việc giữa Starbucks U.S. Brands, LLC và Marshall S. Ruben. Trong đó, Starbucks U.S. Brands, LLC đã đưa ra các chứng cứ để chứng minh sự nổi tiếng của nhãn hiệu “Starbucks Coffee” tại Hoa Kỳ: “Starbucks đã mở cửa hàng bán lẻ đầu tiên của họ tại chợ Pike Place ở Seattle, Washington vào năm 1971. Starbucks đã phát triển lên hơn 5.000 cửa hàng và phát triển hệ thống nhượng quyền thương mại trên khắp Hoa Kỳ, biến Starbucks thành một trong các nhà cung cấp lớn nhất và nổi tiếng nhất về các sản phẩm cà phê ở Mỹ. Hàng chục triệu khách hàng tiếp xúc với nhãn hiệu Starbucks mỗi ngày. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2004, Starbucks đã chi hơn 150 triệu USD đê marketing cho nhãn hiệu Starbucks Coffee. [...] Starbucks cũng điều hành một trang web với trung bình 350.000 lượt truy cập website trong mỗi tuần. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2004, Starbucks có doanh thu hơn 10 tỷ USD. Chỉ riêng năm 2004, doanh thu bán hàng Starbucks đạt 4 tỷ USD. [...] Từ năm 2004, gần một nửa số người tiêu dùng Mỹ đã đến thăm các cửa hàng của Starbucks”14. Cuối cùng, Cơ quan về Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) đã công nhận Starbucks Coffee là nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu “Lessbucks Coffee” bị coi là tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng này.Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, những tiêu chí nào được xem xét khi đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng?Căn cứ vào quy định tại Điều 75 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, các tiêu chí được xem xét khi đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng, bao gồm:(i)   Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo;(ii) Phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành;(ii) Doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp;(iv) Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu;(v)   Uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;(vi) Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;(vii)   Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng;(viii) Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu.Quy định của Điều 75 chưa có sự thống nhất với định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng tại khoản 20 Điều 4. Theo định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng được nêu tại khoản 20 Điều 4 thì phạm vi nổi tiếng của nhãn hiệu là tại Việt Nam: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên, theo khoản 6 và khoản 7 Điều 75, đánh giá sự nổi tiếng của nhãn hiệu thì phạm vi nổi tiếng được mở rộng hơn, bởi vì phải xem xét tiêu chí số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu và số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng. Ví dụ, nếu căn cứ theo khoản 20 Điều 4 thì “ABC” (nhãn hiệu giả định) là nhãn hiệu nổi tiếng vì được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đối chiếu với các tiêu chí đánh giá tại Điều 75 thì “ABC” có thể không đáp ứng được tiêu chí về số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng. Như vậy liệu “ABC” có được xem là nhãn hiệu nổi tiếng hay không? Ngoài ra, Điều 75 cũng không chỉ rõ rằng để được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng thì phải đáp ứng được tất cả 8 tiêu chí được liệt kê hay chỉ cần thỏa mãn một số tiêu chí trong số đó; những tiêu chí nào là bắt buộc hay bắt buộc tất cả các tiêu chí trên? Ngoài những tiêu chí mà Luật liệt kê, liệu rằng có thể xem xét các tiêu chí khác có liên quan hay không? Chính những vướng mắc và sự nhập nhằng trong quy định liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng cũng như chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, nên tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc xác định nhãn hiệu nổi tiếng.4.   Kinh nghiệm nước ngoài về đánh giá nhãn hiệu nổi tiếngHiệp định CPTPP và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam EU (EVFTA) đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Khuyến nghị chung về các quy định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được Hội đồng Liên hiệp Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Đại hội đồng Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thông qua. Tại Điều 2 Khuyến nghị này liệt kê các yếu tố được xem xét, đánh giá để kết luận một nhãn hiệu có phải là nhãn hiệu nổi tiếng hay không. Theo đó, để xác định một nhãn hiệu có được coi là nhãn hiệu nổi tiếng hay không, cơ quan có thẩm quyền sẽ đánh giá tùy từng trường hợp cụ thể, trong đó chú ý các yếu tố sau:(1)   Mức độ biết đến và thừa nhận nhãn hiệu trong công chúng;(2)   Thời gian, mức độ và phạm vi địa lý mà nhãn hiệu được sử dụng;(3) Thời gian, mức độ và phạm vi địa lý mà nhãn hiệu được xúc tiến, bao gồm việc quảng cáo, giới thiệu tại các buổi triển lãm, trưng bày các sản phẩm hay dịch vụ mang nhãn hiệu;(4)   Thời gian và phạm vi địa lý của việc đăng ký hay yêu cầu đăng ký nhãn hiệu;(5) Việc thực hiện hiệu quả các quyền được trao bởi nhãn hiệu, đặc biệt là mức độ mà nhãn hiệu đã được các cơ quan có thẩm quyền thừa nhận là nhãn hiệu nổi tiếng;  (6)   Giá trị gắn liền với nhãn hiệu.Nhìn chung, các tiêu chí này cũng hướng đến việc xem xét mức độ phổ biến và được biết đến của nhãn hiệu theo thời gian và không gian địa lý. Một nhãn hiệu được xem là nổi tiếng phải được đa số người tiêu dùng biết đến. Tuy nhiên, Điều 2 của Khuyến nghị không chỉ đưa ra các tiêu chí đánh giá, mà còn hướng dẫn cách đánh giá như sau: Các tiêu chí được liệt kê chỉ là những chỉ dẫn giúp cơ quan có thẩm quyền xác định xem một nhãn hiệu có được coi là nhãn hiệu nổi tiếng hay không chứ không phải là những yêu cầu định sẵn để đi đến kết luận. Việc kết luận còn phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Trong một số trường hợp, tất cả các yếu tố được liệt kê có thể có liên quan, nhưng trong nhiều trường hợp khác, chỉ một số yếu tố trong số đó nên được xem xét. Những tiêu chí để xác định nhãn hiệu nổi tiếng không bị giới hạn ở những tiêu chí đã được liệt kê ở trên. Do vậy, trong nhiều trường hợp, việc đánh giá có thể dựa trên những tiêu chí khác đã không được liệt kê. Những tiêu chí khác này có thể được xem xét độc lập hoặc trong mối liên hệ với những tiêu chí đã được liệt kê. Đối chiếu với pháp luật Việt Nam, Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 mới chỉ liệt kê các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng mà thiếu đi những chỉ dẫn cần thiết như trên.Trong pháp luật Hoa Kỳ, Đạo luật về nhãn hiệu của Hoa Kỳ năm 2006 quy định khi quyết định liệu một nhãn hiệu có được coi là nhãn hiệu nổi tiếng hay không, tòa án sẽ xem xét “mọi yếu tố liên quan, trong đó bao gồm” 4 yếu tố đánh giá cụ thể sau:(i) Thời gian, mức độ và phạm vi quảng cáo và mức độ phổ biến của nhãn hiệu, cho dù việc quảng cáo hoặc phổ biến đó do chủ sở hữu nhãn hiệu hay các bên thứ ba thực hiện;(ii) Số lượng, khối lượng và phạm vi địa lý của việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ được chào bán với nhãn hiệu đó;   (iii) Mức độ công nhận thực tế của nhãn hiệu;  (iv) Nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ hay chura.Điều này có nghĩa là, tòa án có thể xem xét các yếu tố khác ngoài 4 yếu tố đã được Luật liệt kê để kết luận một nhãn hiệu có được xem là nhãn hiệu nổi tiếng hay không.Trong pháp luật của Liên minh châu Âu, để đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng, tòa án cần tiến hành xem xét nhiều yếu tố, đặc biệt là mức độ thừa nhận nhãn hiệu của bộ phận công chúng có liên quan, thị phần của sản phẩm mang nhãn hiệu, vị trí của nhãn hiệu trên thị trường, mức độ sử dụng của nhãn hiệu, phạm vi địa lý nơi nhãn hiệu được sử dụng, thời gian sử dụng, các hoạt động quảng cáo nhãn hiệu và các yếu tố khác có liên quan (như các chứng nhận hay giải thưởng). Việc đánh giá này là tùy từng trường hợp cụ thể (au cas par cas), trong đó không chỉ căn cứ vào mức độ thừa nhận nhãn hiệu, mà còn xem xét tất cả các yếu tố khác có khả năng cung cấp các thông tin về hiệu suất của nhãn hiệu trên thị trường.Những quy định trên là nguồn thông tin có giá trị tham khảo cho Việt Nam liên quan đến việc đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng. Thiết nghĩ, các tiêu chí được đặt ra tại Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 nên được vận dụng một cách linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể để đánh giá và đưa ra kết luận liệu rằng nhãn hiệu đang xem xét có được xem là nhãn hiệu nổi tiếng hay không. Không nên cứng nhắc khi đánh giá mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu chỉ giới hạn trong các yếu tố được liệt kê ở Điều 75 mà không xem xét đến các yếu tố khác cho dù chúng có liên quan. Cũng không nên cứng nhắc cho rằng, để được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng thì nhãn hiệu phải đáp ứng tất cả các tiêu chí tại Điều 75.Cuối cùng, việc hoàn thiện các quy định liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng là rất cần thiết trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.Nguồn: Nhà nước và Pháp luật Số 2/2021https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/313836/CVv225S22021056.pdfTheo: Nguyễn Trọng LuânLink tài liệu: https://docs.google.com/document/d/153XqVcUmlfUfmw4MTvXqWzuGfbfUO3fa/edit