0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64e716ae81e26-Đánh-giá-thực-trạng-Cơ-quan-Cảnh-sát-điều-tra.jpeg

Đánh giá thực trạng Cơ quan Cảnh sát điều tra

3.1. Đánh giá thực trạng Cơ quan Cảnh sát điều tra

3.1.2 .Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Cơ quan Cảnh sát điều tra

  • Ưu điểm

Như đã trình bày ở phần thực trạng, từ 2005 đến 2013 Cơ quan CSĐT Công an các cấp đã đã kết thúc điều tra được 526.508 vụ án, với 927.555 bị can. Trong đó, kết luận điều tra đề nghị truy tố 512.896 vụ (đạt 97,41%), 897.292 bị can (đạt 96,73%). Con số trên đây phần nào phản ánh kết quả to lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mà Cơ quan CSĐT đã đạt được. Để đạt được kết quả như vậy xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, có một nguyên nhân quan trọng, đó là các quy định của pháp luật TTHS tương đối đồng bộ và phù hợp, tạo ra cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Cơ quan CSĐT CA các cấp. Tính đồng bộ, phù hợp của pháp luật thể hiện ở một số vấn đề sau đây:

Một là, Bộ luật TTHS đã tạo ra một khung khổ pháp lý quan trọng về quyền hạn (thẩm quyền), trách nhiệm của Cơ quan CSĐT với tư cách là một trong những Cơ quan tiến hành tố tụng và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT và ĐTV với tư cách là những người tiến hành tố tụng. Ngoài ra, trong Pháp lệnh tổ chức ĐTHS hướng dẫn Bộ luật TTHS và các văn bản dưới luật khác cũng đã quy định tương đối rõ về tổ chức, hoạt động và thẩm quyền điều tra của các CQĐT trong đó có Cơ quan Cảnh sát điều tra.

Nhìn chung, các quy định trên là khá hợp lý và đồng bộ, đã phát huy được sức mạnh hoạt động của Cơ quan CSĐT trong công tác phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần rất quan trọng vào sự ổn định, phát triển đất nước.

Hai là, Mô hình tổ chức của Cơ quan CSĐT theo Pháp lệnh tổ chức ĐTHS tạo điều kiện cho Cơ quan CSĐT hoạt động điều tra theo hướng tập trung, thống nhất, chuyên sâu, chuyên trách đối với các loại tội phạm cụ thể. Đồng thời mô hình này cũng tạo ra cơ chế huy động được đầy đủ và nhanh nhất lực lượng, phương tiện khi có yêu cầu điều tra vụ án. Đối với Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện hằng năm đã tập trung giải quyết trên 80% tổng số án thụ lý của Cơ quan CSĐT. Theo hướng này, Cơ quan CSĐT cấp trên có điều kiện tập trung lực lượng, phương tiện để điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, các băng, nhóm tội phạm có tổ chức, các vụ án, đối tượng phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn. Đồng thời, CQĐT cấp trên thực hiên tốt hơn nhiệm vụ chỉ đạo, kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ cho Cơ quan CSĐT cấp dưới. Mặt khác, mô hình tổ chức này đã huy động được nhiều lực lượng tham gia vào hoạt động điều tra. Cơ quan CSĐT chuyên trách nhận được nhiều sự hỗ trợ kịp thời từ phía cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và các cơ quan khác của lực lượng Cảnh sát và An ninh trong Công an nhân dân.

Ba là, các tiêu chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT và ĐTV theo quy định hiện hành cơ bản là hợp lý, thể hiện được sự chuẩn hoá. Điều này, một mặt tạo điều kiện cho Cơ quan CSĐT các cấp từng bước nâng cao trình độ mọi mặt của lực lượng mình, đồng thời phối hợp có hiệu quả với các cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡng chức danh, nhất là bồi dưỡng cấp chứng chỉ nghiệp vụ điều tra, bồi dưỡng chức danh lãnh đạo cấp phòng khối điều tra, bồi dưỡng chức danh Trưởng, Phó Trưởng CA cấp huyện, bồi dưỡng chức danh Phó Giám đốc CA cấp tỉnh…).
* Bất cập, hạn chế

Bên cạnh những nội dung phù hợp, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của hệ thống pháp luật TTHS về Cơ quan CSĐT. Do thực tiễn luôn vận động, biến đổi và xuất phát từ đòi hòi của tình hình thực tiễn thì một số quy định của pháp luật TTHS về Cơ quan CSĐT đã bộc lộ một số hạn chế và nảy sinh một số bất cập. Do đó, việc nghiên cứu để chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó để từ đó có biện pháp hoàn thiện là hết sức quan trọng.

- Bất cập, hạn chế của pháp luật TTHS về Cơ quan Cảnh sát điều tra

Qua nghiên cứu cho thấy một số bất cập của pháp luật TTHS về Cơ quan CSĐT thể hiện ở những mặt sau:

+ Những bất cập, hạn chế của pháp luật TTHS về tổ chức bộ máy Cơ quan CSĐT các cấp.

Tổ chức bộ máy của Cơ quan CSĐT có ảnh hưởng rất lớn đối với hiệu quả hoạt động của cơ quan này. Đánh giá chung thì mô hình tổ chức của Cơ quan CSĐT theo pháp luật TTHS hiện hành đã phát huy được hiệu quả và góp phần rất quan trọng vào công tác giữ gìn an ninh trật tự. Tuy nhiên, qua gần 10 năm hoạt động thì mô hình tổ chức của Cơ quan CSĐT đã bộc lộ một số bất cập sau:

Một là, về kết cấu, tên gọi các lực lượng trong Cơ quan CSĐT CA các cấp:

* Về kết cấu: Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì tổ chức của Cơ quan CSĐT BCA gồm có các lực lượng: Cục CSĐT tội phạm về TTXH; Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng; Cục CSĐT tội phạm về TTQLKT & CV; Cục CSĐT tội phạm về ma túy và Văn phòng Cơ quan CSĐT. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, hằng năm số lượng án tham nhũng do lực lượng CSĐT tội phạm về tham nhũng phát hiện và tiến hành điều tra rất ít. Cụ thể, theo thống kê từ năm 2007 đến 2013 chỉ phát hiện, điều tra được 2.084 vụ phạm tội về tham nhũng (chiếm khoảng 0,35%) [Phụ lục,
 

Bảng 1.1]. Do đó, nên xem xét việc sát nhập lực lực lượng điều tra về tham nhũng vì 2 lý do. Thứ nhất, cần quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Kết luận số 92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “giữ nguyên hệ thống tổ chức các Cơ quan điều tra chuyên trách tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự trung ương như hiện nay và sắp xếp tinh gọn đầu mối trong từng cơ quan”. Thứ hai, hiện nay ở cấp tỉnh không có riêng lực lượng CSĐT tội phạm về tham nhũng mà được tổ chức chung với lực lượng CSĐT tội phạm về kinh tế và qua thực tiễn cho thấy, công tác điều tra tội phạm về tham nhũng tại Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh vẫn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Bên cạnh đó, hiện nay ở Bộ Công an mà cụ thể là trong Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm đã thành lập Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, quyền năng pháp lý của lực lượng này chưa được ghi nhận, chưa phải là lực lượng điều tra và cũng không phải là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra. Đây là những điểm bất cập cần nghiên cứu, hoàn thiện nhằm tăng hiệu lực, hiệu quả hơn nữa cho Cơ quan CSĐT Bộ Công an.

+ Về tên gọi: hiện nay, tên gọi của cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, hướng dẫn đối với hoạt động của Cơ quan CSĐT các cấp là Văn phòng Cơ quan CSĐT. Tuy nhiên, tên gọi này không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Do đó, cần thiết phải xem xét sửa đổi lại tên gọi của lực lượng này cho phù hợp với đúng chức năng: quản lý, kiểm tra, hướng dẫn điều tra. Mặt khác, Phòng CSĐT tội phạm về TTQLKT & CV thuộc Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh có thẩm quyền điều tra tội phạm về tham nhũng nhưng tên gọi chưa thể hiện đầy đủ thẩm quyền đó. Do đó, cũng cần thiết nên xem lại tên gọi của lực lượng CSĐT này.
Hai là, tổ chức bộ máy của Cơ quan CSĐT hiện nay theo Pháp lệnh tổ chức ĐTHS có ưu điểm là gắn kết được hai hoạt động là điều tra trinh sát và điều tra theo tố tụng. Tuy nhiên, qua gần 10 năm thực hiện mô hình này thì trong Cơ quan CSĐT các cấp lại xuất hiện tình trạng buông lỏng công tác nghiệp vụ cơ bản (phòng ngừa) do lực lượng ĐTV thiếu nên phải tập trung lực lượng trinh sát vào việc giải quyết các vụ việc có dấu hiệu hình sự. Điều này dẫn đến hiệu quả công tác nghiệp vụ cơ bản thấp, quản lý địa bàn và các đối tượng hình sự yếu, tính chủ động trong phòng ngừa tội phạm bị giảm sút [49, tr.109].

Ba là, Mô hình Cơ quan CSĐT hiện nay được tổ chức theo hướng chuyên sâu, trong Cơ quan CSĐT các cấp có các Cục (cấp Bộ), Phòng (cấp tỉnh), Đội (cấp huyện) chuyên trách về điều tra các loại tội phạm theo thẩm quyền được giao. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động đã nảy sinh hiện tượng Thủ trưởng Cơ quan CSĐT các cấp gặp khó khăn trong việc quản lý Cơ quan CSĐT cấp mình do nhiều việc, vừa đảm nhiệm tư cách tố tụng vừa đảm nhiệm các trách nhiệm quản lý hành chính khác. Mặt khác, do các lực lượng điều tra theo chuyên trách nên có biểu hiện hoạt động “độc lập”, ít có sự phối kết hợp, trao đổi thông tin trong quá trình thực thi nhiệm vụ [49, tr.109].

+ Những bất cập của pháp luật TTHS về thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra.

Qua nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT nghiên cứu sinh thấy có một số bất cập sau:

Thứ nhất, khoản 2 Điều 11 Pháp lệnh tổ chức ĐTHS quy định: “Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra”.

Tiếp đó, tại khoản 3 Điều 11 Pháp lệnh tổ chức ĐTHS quy định: “Cơ quan CSĐT Bộ Công an điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra”.

Từ những quy định trên có thể thấy, Cơ quan CSĐT cấp trên có quyền điều tra những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT cấp dưới nếu thấy “cần” trực tiếp điều tra. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy chưa có quy định nào giải thích rõ khi nào là “cần”, khi nào thì “không cần” trực tiếp điều tra. Điều này sẽ dẫn đến sự không rõ ràng, tùy tiện vận dụng trong thực tiễn. Mặt khác, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đã được quy định, giải thích trong Bộ luật hình sự và một số văn bản. Tuy nhiên, khái niệm tội phạm “phức tạp” thì chưa được văn bản nào giải thích. Đây cũng là vấn đề cần nghiên cứu thêm để tránh tùy nghi vận dụng trong thực tiễn.

Những bất cập trên sẽ dẫn đến làm giảm vai trò của các cơ quan cấp trên trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất; đồng thời nó còn tạo ra những xáo trộn không nhỏ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến số lượng lớn vụ án phải ủy quyền cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm.

Theo: Vũ Duy Công

Link luận án:  Tại đây

avatar
Phạm Linh Chi
651 ngày trước
Đánh giá thực trạng Cơ quan Cảnh sát điều tra
3.1. Đánh giá thực trạng Cơ quan Cảnh sát điều tra3.1.2 .Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Cơ quan Cảnh sát điều traƯu điểmNhư đã trình bày ở phần thực trạng, từ 2005 đến 2013 Cơ quan CSĐT Công an các cấp đã đã kết thúc điều tra được 526.508 vụ án, với 927.555 bị can. Trong đó, kết luận điều tra đề nghị truy tố 512.896 vụ (đạt 97,41%), 897.292 bị can (đạt 96,73%). Con số trên đây phần nào phản ánh kết quả to lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mà Cơ quan CSĐT đã đạt được. Để đạt được kết quả như vậy xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, có một nguyên nhân quan trọng, đó là các quy định của pháp luật TTHS tương đối đồng bộ và phù hợp, tạo ra cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Cơ quan CSĐT CA các cấp. Tính đồng bộ, phù hợp của pháp luật thể hiện ở một số vấn đề sau đây:Một là, Bộ luật TTHS đã tạo ra một khung khổ pháp lý quan trọng về quyền hạn (thẩm quyền), trách nhiệm của Cơ quan CSĐT với tư cách là một trong những Cơ quan tiến hành tố tụng và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT và ĐTV với tư cách là những người tiến hành tố tụng. Ngoài ra, trong Pháp lệnh tổ chức ĐTHS hướng dẫn Bộ luật TTHS và các văn bản dưới luật khác cũng đã quy định tương đối rõ về tổ chức, hoạt động và thẩm quyền điều tra của các CQĐT trong đó có Cơ quan Cảnh sát điều tra.Nhìn chung, các quy định trên là khá hợp lý và đồng bộ, đã phát huy được sức mạnh hoạt động của Cơ quan CSĐT trong công tác phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần rất quan trọng vào sự ổn định, phát triển đất nước.Hai là, Mô hình tổ chức của Cơ quan CSĐT theo Pháp lệnh tổ chức ĐTHS tạo điều kiện cho Cơ quan CSĐT hoạt động điều tra theo hướng tập trung, thống nhất, chuyên sâu, chuyên trách đối với các loại tội phạm cụ thể. Đồng thời mô hình này cũng tạo ra cơ chế huy động được đầy đủ và nhanh nhất lực lượng, phương tiện khi có yêu cầu điều tra vụ án. Đối với Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện hằng năm đã tập trung giải quyết trên 80% tổng số án thụ lý của Cơ quan CSĐT. Theo hướng này, Cơ quan CSĐT cấp trên có điều kiện tập trung lực lượng, phương tiện để điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, các băng, nhóm tội phạm có tổ chức, các vụ án, đối tượng phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn. Đồng thời, CQĐT cấp trên thực hiên tốt hơn nhiệm vụ chỉ đạo, kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ cho Cơ quan CSĐT cấp dưới. Mặt khác, mô hình tổ chức này đã huy động được nhiều lực lượng tham gia vào hoạt động điều tra. Cơ quan CSĐT chuyên trách nhận được nhiều sự hỗ trợ kịp thời từ phía cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và các cơ quan khác của lực lượng Cảnh sát và An ninh trong Công an nhân dân.Ba là, các tiêu chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT và ĐTV theo quy định hiện hành cơ bản là hợp lý, thể hiện được sự chuẩn hoá. Điều này, một mặt tạo điều kiện cho Cơ quan CSĐT các cấp từng bước nâng cao trình độ mọi mặt của lực lượng mình, đồng thời phối hợp có hiệu quả với các cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡng chức danh, nhất là bồi dưỡng cấp chứng chỉ nghiệp vụ điều tra, bồi dưỡng chức danh lãnh đạo cấp phòng khối điều tra, bồi dưỡng chức danh Trưởng, Phó Trưởng CA cấp huyện, bồi dưỡng chức danh Phó Giám đốc CA cấp tỉnh…).* Bất cập, hạn chếBên cạnh những nội dung phù hợp, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của hệ thống pháp luật TTHS về Cơ quan CSĐT. Do thực tiễn luôn vận động, biến đổi và xuất phát từ đòi hòi của tình hình thực tiễn thì một số quy định của pháp luật TTHS về Cơ quan CSĐT đã bộc lộ một số hạn chế và nảy sinh một số bất cập. Do đó, việc nghiên cứu để chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó để từ đó có biện pháp hoàn thiện là hết sức quan trọng.- Bất cập, hạn chế của pháp luật TTHS về Cơ quan Cảnh sát điều traQua nghiên cứu cho thấy một số bất cập của pháp luật TTHS về Cơ quan CSĐT thể hiện ở những mặt sau:+ Những bất cập, hạn chế của pháp luật TTHS về tổ chức bộ máy Cơ quan CSĐT các cấp.Tổ chức bộ máy của Cơ quan CSĐT có ảnh hưởng rất lớn đối với hiệu quả hoạt động của cơ quan này. Đánh giá chung thì mô hình tổ chức của Cơ quan CSĐT theo pháp luật TTHS hiện hành đã phát huy được hiệu quả và góp phần rất quan trọng vào công tác giữ gìn an ninh trật tự. Tuy nhiên, qua gần 10 năm hoạt động thì mô hình tổ chức của Cơ quan CSĐT đã bộc lộ một số bất cập sau:Một là, về kết cấu, tên gọi các lực lượng trong Cơ quan CSĐT CA các cấp:* Về kết cấu: Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì tổ chức của Cơ quan CSĐT BCA gồm có các lực lượng: Cục CSĐT tội phạm về TTXH; Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng; Cục CSĐT tội phạm về TTQLKT & CV; Cục CSĐT tội phạm về ma túy và Văn phòng Cơ quan CSĐT. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, hằng năm số lượng án tham nhũng do lực lượng CSĐT tội phạm về tham nhũng phát hiện và tiến hành điều tra rất ít. Cụ thể, theo thống kê từ năm 2007 đến 2013 chỉ phát hiện, điều tra được 2.084 vụ phạm tội về tham nhũng (chiếm khoảng 0,35%) [Phụ lục, Bảng 1.1]. Do đó, nên xem xét việc sát nhập lực lực lượng điều tra về tham nhũng vì 2 lý do. Thứ nhất, cần quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Kết luận số 92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “giữ nguyên hệ thống tổ chức các Cơ quan điều tra chuyên trách tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự trung ương như hiện nay và sắp xếp tinh gọn đầu mối trong từng cơ quan”. Thứ hai, hiện nay ở cấp tỉnh không có riêng lực lượng CSĐT tội phạm về tham nhũng mà được tổ chức chung với lực lượng CSĐT tội phạm về kinh tế và qua thực tiễn cho thấy, công tác điều tra tội phạm về tham nhũng tại Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh vẫn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.Bên cạnh đó, hiện nay ở Bộ Công an mà cụ thể là trong Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm đã thành lập Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, quyền năng pháp lý của lực lượng này chưa được ghi nhận, chưa phải là lực lượng điều tra và cũng không phải là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra. Đây là những điểm bất cập cần nghiên cứu, hoàn thiện nhằm tăng hiệu lực, hiệu quả hơn nữa cho Cơ quan CSĐT Bộ Công an.+ Về tên gọi: hiện nay, tên gọi của cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, hướng dẫn đối với hoạt động của Cơ quan CSĐT các cấp là Văn phòng Cơ quan CSĐT. Tuy nhiên, tên gọi này không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Do đó, cần thiết phải xem xét sửa đổi lại tên gọi của lực lượng này cho phù hợp với đúng chức năng: quản lý, kiểm tra, hướng dẫn điều tra. Mặt khác, Phòng CSĐT tội phạm về TTQLKT & CV thuộc Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh có thẩm quyền điều tra tội phạm về tham nhũng nhưng tên gọi chưa thể hiện đầy đủ thẩm quyền đó. Do đó, cũng cần thiết nên xem lại tên gọi của lực lượng CSĐT này.Hai là, tổ chức bộ máy của Cơ quan CSĐT hiện nay theo Pháp lệnh tổ chức ĐTHS có ưu điểm là gắn kết được hai hoạt động là điều tra trinh sát và điều tra theo tố tụng. Tuy nhiên, qua gần 10 năm thực hiện mô hình này thì trong Cơ quan CSĐT các cấp lại xuất hiện tình trạng buông lỏng công tác nghiệp vụ cơ bản (phòng ngừa) do lực lượng ĐTV thiếu nên phải tập trung lực lượng trinh sát vào việc giải quyết các vụ việc có dấu hiệu hình sự. Điều này dẫn đến hiệu quả công tác nghiệp vụ cơ bản thấp, quản lý địa bàn và các đối tượng hình sự yếu, tính chủ động trong phòng ngừa tội phạm bị giảm sút [49, tr.109].Ba là, Mô hình Cơ quan CSĐT hiện nay được tổ chức theo hướng chuyên sâu, trong Cơ quan CSĐT các cấp có các Cục (cấp Bộ), Phòng (cấp tỉnh), Đội (cấp huyện) chuyên trách về điều tra các loại tội phạm theo thẩm quyền được giao. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động đã nảy sinh hiện tượng Thủ trưởng Cơ quan CSĐT các cấp gặp khó khăn trong việc quản lý Cơ quan CSĐT cấp mình do nhiều việc, vừa đảm nhiệm tư cách tố tụng vừa đảm nhiệm các trách nhiệm quản lý hành chính khác. Mặt khác, do các lực lượng điều tra theo chuyên trách nên có biểu hiện hoạt động “độc lập”, ít có sự phối kết hợp, trao đổi thông tin trong quá trình thực thi nhiệm vụ [49, tr.109].+ Những bất cập của pháp luật TTHS về thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra.Qua nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT nghiên cứu sinh thấy có một số bất cập sau:Thứ nhất, khoản 2 Điều 11 Pháp lệnh tổ chức ĐTHS quy định: “Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra”.Tiếp đó, tại khoản 3 Điều 11 Pháp lệnh tổ chức ĐTHS quy định: “Cơ quan CSĐT Bộ Công an điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra”.Từ những quy định trên có thể thấy, Cơ quan CSĐT cấp trên có quyền điều tra những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT cấp dưới nếu thấy “cần” trực tiếp điều tra. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy chưa có quy định nào giải thích rõ khi nào là “cần”, khi nào thì “không cần” trực tiếp điều tra. Điều này sẽ dẫn đến sự không rõ ràng, tùy tiện vận dụng trong thực tiễn. Mặt khác, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đã được quy định, giải thích trong Bộ luật hình sự và một số văn bản. Tuy nhiên, khái niệm tội phạm “phức tạp” thì chưa được văn bản nào giải thích. Đây cũng là vấn đề cần nghiên cứu thêm để tránh tùy nghi vận dụng trong thực tiễn.Những bất cập trên sẽ dẫn đến làm giảm vai trò của các cơ quan cấp trên trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất; đồng thời nó còn tạo ra những xáo trộn không nhỏ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến số lượng lớn vụ án phải ủy quyền cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm.Theo: Vũ Duy CôngLink luận án:  Tại đây