
Thực tiễn thi hành pháp luật về tổ chức, quản lý công ty luật hợp danh và một số nhận xét
2.2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về tổ chức, quản lý công ty luật hợp danh và một số nhận xét
2.2.2.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về tổ chức, quản lý công ty luật hợp danh
(i) Về tổ chức, quản lý
Trên thực tế hiện nay, công ty luật hợp danh ở Việt Nam thường sắp xếp cơ cấu như sau: Người đại diện theo pháp luật của công ty luật hợp danh; Luật sư điều hành, Luật sư hợp danh; Luật sư làm việc theo hợp đồng; Người tập sự hành nghề luật sư; Nhân viên văn phòng v.v…
- Người đại diện của công ty luật hợp danh trước cơ quan quản lý Nhà nước: Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, các luật sư thành viên hợp danh đều có quyền đại diện theo pháp luật của công ty. Nhưng người đại diện theo pháp luật cho công ty luật hợp danh trước các cơ quan quản lý nhà nước, Tòa án... thông thường là Giám đốc công ty. Giám đốc là luật sư được các luật sư thành viên khác của công ty thỏa thuận cử làm Giám đốc. Việc thỏa thuận cử Giám đốc công ty thường được lập thành văn bản và có chữ ký của tất cả các luật sư thành viên. Trong công ty luật hợp danh thường có những chức danh nghề nghiệp sau:
- Luật sư điều hành: là luật sư giữ chức danh Giám đốc/tổng giám đốc công ty và là đại diện hợp pháp điều hành mọi hoạt động của công ty.
- Luật sư hợp danh: là thành viên của công ty luật hợp danh. Luật sư hợp danh có thể là luật sư điều hành của công ty.
- Luật sư làm việc theo hợp đồng: là luật sư cộng tác với công ty bằng hình thức hợp đồng với công ty (tương tự như luật sư làm việc theo hợp đồng với văn phòng luật sư/công ty luật TNHH).
- Người tập sự hành nghề luật sư: Là người có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư đăng ký tập sự hành nghề luật sư tại công ty (tương tự như Người tập sự hành nghề luật sư tại VPLS/công ty luật TNHH).
- Nhân viên văn phòng: là người phụ trách việc hành chính (tương tự như nhân viên hành chính tại văn phòng luật sư /công ty luật TNHH).
Ngoài ra còn có thể có: Văn thư, Kế toán, Thủ quỹ của công ty. Đối với một số công ty luật có quy mô lớn và có nhiều chi nhánh (tương tự như VPLS/công ty luật TNHH), trong công ty có thể còn bao gồm: Người phụ trách tư liệu, người phiên dịch, trợ lý giám đốc/Tổng giám đốc, v.v…
(ii) Về thực hiện về cơ cấu tổ chức, phân chia quyền lực và kiểm soát trong công ty luật hợp danh
Về tổng thể, các công ty luật hợp danh được thành lập hợp pháp ở Việt Nam đều tuân thủ những quy định bắt buộc theo pháp luật ở khía cạnh quản trị nhân sự, dịch vụ trong công ty luật. Việc lựa chọn luật sư, quản trị nguồn nhân lực này đang ngày càng được chú trọng trong các công ty luật hợp danh.
Các công ty luật hợp danh nói riêng đã thực hiện quản trị tài chính theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về luật sư. Về chế độ tài chính, thuế, công ty luật hợp danh phải thực hiện theo quy định của pháp luật về luật sư, pháp luật về tài chính, pháp luật về thuế như việc thu thù lao của luật sư, chế độ kế toán, thống kê, kê khai thuế và nộp thuế. Các công ty luật hợp danh đã thực hiện khá tốt trách nhiệm cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước để xây dựng cân đối tiền tệ, xây dựng cán cân thanh toán của Việt Nam, đánh giá, dự báo xu hướng phát triển của thị trường tiền tệ. Ngoài ra, công ty luật hợp danh còn phải thực hiện các chế độ khác trong quản trị tài chính như vấn đề góp vốn, trình tự, thủ tục góp vốn, quản lý vốn, tài sản, phân chia lợi nhuận và rủi ro theo quy định của Điều lệ công ty luật.
Thực tế cho thấy, điều lệ các công ty luật hợp danh thường quy định nguyên tắc phân chia lợi nhuận, chế độ sổ sách, tài chính như sau:
- Trước khi quyết định phân chia lợi nhuận sau thuế, HĐTV có quyền giữ lại một phần lợi nhuận để bổ sung vào các quỹ nội bộ để hỗ trợ cho hoạt động hành nghề của công ty;
- Tỷ lệ lợi nhuận phân bổ vào các quỹ, mục đích và nguyên tắc sử dụng các quỹ này sẽ do HĐTV quyết định dựa trên việc xem xét kết quả hoạt động của công ty và tùy thuộc vào yêu cầu của pháp luật;
- Trong bất kỳ năm tài chính nào trong đó công ty có được khoản lãi sau thuế, công ty sẽ phân chia lợi nhuận đó cho các thành viên theo tỷ lệ phần vốn góp, trừ đi bất kỳ khoản tiền nào mà HĐTV quyết định giữ lại trong công ty.
Mỗi thành viên đều phải có trách nhiệm thanh toán bất kỳ khoản thuế được yêu cầu trên lợi nhuận được phân chia cho cơ quan thuế Việt Nam;
- Nếu công ty bị lỗ, HĐTV có thể quyết định chuyển lỗ sang năm tài chính kế tiếp;
- Việc tính khấu hao tài sản cố định của công ty sẽ sử dụng phương pháp do HĐTV quyết định. Thời gian khấu hao tài sản cố định (máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải và các thiết bị điện tử) sẽ được áp dụng theo quy định của pháp luật;
- Công ty chỉ được chia lợi nhuận cho các thành viên khi có lãi, hoàn thành các nghĩa vụ thuế và tài chính khác; đồng thời bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản đến hạn trả khác sau khi chia lợi nhuận;
- Công ty sẽ lưu trữ hồ sơ kế toán theo loại hình của các hoạt động hành nghề mà công ty tham gia. Những hồ sơ này phải chính xác, cập nhật, có hệ thống và phải đủ để chứng minh và giải trình các giao dịch của công ty.
(iii) Về yêu cầu được cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của công ty luật hợp danh
Thành viên hợp danh trong công ty có quyền yêu cầu công ty, thành viên hợp danh khác cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của công ty; kiểm tra tài sản, sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty khi xét thấy cần thiết. Việc minh bạch hóa thông tin trong quản trị công ty là một việc làm cần thiết trong việc bảo vệ lợi ích của công ty và thành viên công ty. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh đến trường hợp có thể lạm dụng việc yêu cầu cung cấp thông tin để trục lợi và/hoặc làm tổn hại đến bí mật kinh doanh của công ty, gây phương hại tới công ty và thành viên. Vì vậy, việc xác định yêu cầu được cung cấp các thông tin là quyền của thành viên hợp danh nhưng cũng cần chỉ rõ trường hợp nào là trường hợp được coi là “cần thiết”. Đồng thời quyền yêu cầu của thành viên nhưng xuất phát từ bản chất pháp lý của công ty luật hợp danh thì việc yêu cầu đó cần phải được sự đồng ý của tất cả các thành viên còn lại. Thiết nghĩ điều đó vừa bảo đảm quyền của thành viên, vừa thực hiện được cơ chế tổ chức, quản lý của công ty.
Theo: Nguyễn Minh Đức
Link luận án: Tại đây
