
Thực tiễn tham gia của Trung Quốc vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá
3.2.2. Thực tiễn tham gia của Trung Quốc vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá
Sau khi chính thức gia nhập WTO, với một nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, Trung Quốc đã nhanh chóng trở thành một “nhân vật chính” trong “sân chơi chung” của WTO. Với lợi thế về giá rẻ nên hàng hóa của Trung Quốc đã xâm chiếm hầu hết các thị trường trên thế giới. Bởi vậy, không khó hiểu khi hàng hóa của Trung Quốc thường xuyên là đối tượng được các thành viên khác tiến hành điều tra chống BPG. Tính từ ngày 1/1/1995 cho đến ngày 30/06/2013, Trung Quốc là nước dẫn đầu trong các thành viên WTO về số vụ bị khởi xướng điều tra chống BPG với 950 vụ. Đồng thời, cũng trong khoảng thời gian này, để bảo vệ các hàng hóa trong nước trước hiện tượng BPG của hàng hóa nhập khẩu, Trung Quốc cũng đã khởi xướng 208 vụ điều tra chống BPG. Do đó, Trung Quốc cũng đã nhanh chóng trở thành đối tượng thường xuyên phải tham gia vào việc giải quyết tranh chấp về chống BPG trong khuôn khổ WTO với cả tư cách nguyên đơn và bị đơn. Riêng đối với các tranh chấp về chống BPG tại WTO, tính đến hết ngày 31/12/2013, Trung Quốc đã tham gia vào bảy vụ với tư cách nguyên đơn và bảy vụ với tư cách bị đơn, đứng thứ tư trong nhóm 10 thành viên khởi xướng nhiều nhất các vụ tranh chấp về chống BPG trong khuôn khổ WTO. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã tham gia vào 20 vụ tranh chấp về chống BPG tại WTO với tư cách là bên thứ ba, chiếm khoảng 20% trong tổng số 105 vụ tranh chấp thương mại quốc tế tại WTO mà Trung Quốc đã tham gia với tư cách này. Trong bảy vụ tranh chấp mà Trung Quốc tham gia với tư cách nguyên đơn, Trung Quốc thắng bốn vụ (DS422, DS405, DS397, DS379), một vụ đã yêu cầu thành lập Ban hội thẩm (DS449) và hai vụ vẫn đang trong giai đoạn tham vấn (DS368 và DS471). Đối với bảy vụ tranh chấp mà Trung Quốc tham gia với tư cách bị đơn, hai vụ vẫn đang trong giai đoạn tham vấn (DS407 và DS460), ba vụ đã thành lập được Ban hội thẩm (DS425, DS427, DS440), một vụ đã yêu cầu thành lập Ban hội thẩm nhưng chưa thành lập được (DS454) và một vụ đã thông qua báo cáo của AB (DS414). Tất cả các vụ tranh chấp về chống BPG mà Trung Quốc là bị đơn đều diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 2010 trở lại đây.
Dù tham gia với tư cách nguyên đơn, bị đơn hay bên thứ ba, Trung Quốc cũng luôn biết cách tự bảo vệ mình bằng việc sử dụng một cách có hiệu quả DSM của WTO. Sự tham gia của Trung Quốc vào hệ thống này được tiến hành theo một lộ trình hợp lý và bài bản, bắt đầu từ một “anh lính mới học việc” chủ yếu thông qua việc tham gia với tư cách là bên thứ ba; tiếp đến là “một bị đơn bất đắc dĩ” trong những vụ tranh chấp đầu tiên tại WTO mà tại thời điểm đó, với kinh nghiệm còn hạn chế, Trung Quốc đã ưu tiên chọn cách giải quyết thông qua thương lượng hòa giải hơn là đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại DSB nhằm kết thúc sớm các tranh chấp; bước tiếp theo, sau khi đã có những hiểu biết và kinh nghiệm cần thiết, Trung Quốc đã chuyển từ thế “phòng ngự” bị động sang thế “tấn công” chủ động trong các vụ tranh chấp tại WTO, “chiến đấu” tới cùng để bảo vệ lợi ích của mình trong các vụ kiện mà họ là bị đơn cũng như sẵn sàng khởi kiện với tư cách là nguyên đơn khi các nước đối tác có những hành động làm ảnh hưởng tới lợi ích của Trung Quốc.
Một trong những kinh nghiệm quan trọng của Trung Quốc là hãy luôn tận dụng mọi cơ hội và sử dụng hiệu quả việc tham vấn để giải quyết tranh chấp về chống BPG. Có thể lấy một ví dụ tiêu biểu trong vụ kiện với Hoa Kỳ về các mức thuế chống BPG và thuế đối kháng tạm thời đối với giấy tấm không phủ nhập khẩu (CFSP) từ Trung Quốc (DS368). Tại thời điểm năm 2007, hàng hóa của Trung Quốc thường xuyên bị Hoa Kỳ điều tra chống BPG và trợ cấp, đồng thời, nền kinh tế của Trung Quốc bị coi là nền kinh tế phi thị trường, bởi vậy, trong quá trình xác định biên độ BPG cũng như các mức thuế chống BPG và thuế đối kháng, phía Hoa Kỳ thường xuyên từ chối giá cả và chi phí của các doanh nghiệp Trung Quốc mà lựa chọn giá của sản phẩm tương tự ở nước thứ ba để làm căn cứ tính giá trị thông thường. Điều này rõ ràng thường dẫn tới những mức thuế cao hơn so với mức thuế áp dụng cho các nền kinh tế thị trường. Vấn đề lớn nhất ở đây là, nếu một quyết định về nền kinh tế phi thị trường và các mức thuế cao như vậy được USDOC ban hành thì nó sẽ là một tiền lệ không tốt cho những hành động tương tự tiếp theo của các ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ, hoạt động trong các lĩnh vực khác như thiết bị gia dụng, thép v.v., tiến hành nhằm chống lại sản phẩm nhập khẩu của Trung Quốc, từ đó, sẽ đe dọa nghiêm trọng tới hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Đồng thời, việc này cũng có thể khuyến khích các thành viên khác của WTO tiến hành các hành động tương tự nhằm chống lại các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc. Sau khi những nỗ lực thương lượng song phương và thủ tục pháp lý tại Tòa thương mại quốc tế của Hoa Kỳ (USCIT) không mang lại kết quả như mong muốn, Trung Quốc cũng không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc khởi kiện Hoa Kỳ ra DSB. Xét ở góc độ pháp lý, Trung Quốc biết rõ rằng, sẽ tốt hơn cho họ nếu họ chờ đợi và khởi kiện đối với quyết định áp thuế chính thức cuối cùng của USDOC. Tuy nhiên, rất có thể, việc thực hiện một hành động sớm hơn sẽ mang lại những lợi thế nhất định như: (i) khơi dậy một vấn đề mang tính chính trị trong quan hệ thương mại quốc tế liên quan tới Trung Quốc; (ii) tạo sức ép lên USDOC trong việc chỉnh sửa những sai sót nhất định ở các qui trình tiếp theo khi xác định các mức thuế kép về thuế chống BPG và thuế đối kháng. Sau khi nghiên cứu kỹ bối cảnh của vụ kiện, cùng với một niềm tin về việc có rất nhiều “kẽ hở” và “sai sót” căn bản trong các vụ kiện kép chống BPG và trợ cấp, Trung Quốc đã quyết định khởi kiện sớm ngay khi Hoa Kỳ chỉ mới ban hành mức thuế chống BPG và thuế đối kháng tạm thời đối với CFSP. Trong khi Trung Quốc còn đang chuẩn bị cho những bước tiếp theo sau khi thất bại trong việc tham vấn với Hoa Kỳ theo các thủ tục tham vấn bắt buộc của DSU, thì ngày 20/11/2007, Ủy ban thương mại quốc tế của Hoa Kỳ (USITC) đã ra kết luận là các sản phẩm CFSP nhập khẩu từ Trung Quốc không gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đối với ngành công nghiệp trong nước của Hoa Kỳ. Không có bằng chứng nào cho thấy USITC đưa ra kết luận này là do sức ép từ phía Trung Quốc khi khởi kiện vụ tranh chấp DS368 ra DSB. Và có lẽ điều này cũng chẳng còn quan trọng, bởi vì, kết quả cuối cùng mà phía Trung Quốc mong muốn và đã đạt được là sẽ không có bất kỳ một mức thuế chống BPG và thuế đối kháng nào của Hoa Kỳ áp dụng đối với các sản phẩm CFSP nhập khẩu từ Trung Quốc. Như vậy, phía Trung Quốc nhận thấy cũng không cần phải tiếp tục theo đuổi vụ kiện DS368 tại WTO. Trên thực tế, cho tới hết tháng 12/2013, vụ DS368 vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn tham vấn. Cần lưu ý, trong trường hợp, trên cơ sở đánh giá tình hình thực tế, nếu không đạt được một kết quả trong việc khởi kiện sớm từ trước khi có quyết định áp thuế chống BPG chính thức như Trung Quốc ở vụ DS368, thì bên khiếu kiện vẫn có thể cân nhắc việc dừng vụ kiện đang tiến hành và khởi xướng một vụ kiện khác liên quan tới quyết định áp thuế chống BPG chính thức như cách mà Thái Lan đã tiến hành với hai vụ kiện DS324 và DS343.
Theo: Nguyễn Thị Thu Hiền
Link luận án: Tại đây
