0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64bddc622b87a--THỰC-TRẠNG-PHÁP-LUẬT-VÀ-THỰC-TRẠNG-GIẢI.jpeg.webp

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG GIẢI

3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải trực tuyến

3.1.1   Các qui định về hòa giải trực tuyến

Cho đến hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có qui định cụ thể về HGTT, tuy nhiên dựa trên các qui định về hòa giải thương mại, về giao dịch điện tử cho thấy HGTT cũng được qui định ở các khía cạnh pháp lý dưới đây.

3.1.1.1   Thỏa thuận hòa giải trực tuyến

Muốn sử dụng HGTT ở Việt Nam trước hết các bên phải có thỏa thuận hòa giải và phải bằng văn bản (Điều 6 và Điều 11 Nghị định 22/2017). Dù không qui định trực tiếp về thỏa thuận HGTT nhưng thông qua qui định thỏa thuận hòa giải đó là thỏa thuận giữa các bên về việc GQTC thương mại có thể phát sinh hoặc đã phát sinh bằng phương thức hòa giải (Điều 3.2 Nghị định 22/2017) và sự thừa nhận giá trị pháp lý của dữ liệu điện tử tại Bộ Luật dân sự năm 2015, Điều 12 Luật Thương mại năm 2005 và Luật giao dịch điện tử 2005 cho thấy pháp luật Việt Nam thừa nhận một thỏa thuận hòa giải có thể được lập bằng văn bản hoặc bằng thông điệp dữ liệu. Trong trường hợp thỏa thuận HGTT được lập dưới dạng thông điệp dữ liệu thì nó phải có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết (Điều 12 Luật giao dịch điện tử 2005). Điều này đòi hỏi các bên tham gia phải có sự lưu giữ thỏa thuận hòa giải nếu lập bằng thông điệp dữ liệu.

Pháp luật Việt Nam không có qui định cụ thể về thỏa thuận HGTT do đó vấn đề pháp lý gặp phải là các bên có cần phải biết về hình thức trực tuyến của thỏa thuận HGTT hay không cũng như cần phải có những nội dung gì được đề cập trong một thỏa thuận HGTT. Pháp luật Việt Nam để quyền qui định này cho các trung tâm hòa giải cũng như các bên tranh chấp, khi Nghị định 22/2017 chỉ qui định nguyên tắc về nội dung thỏa thuận hòa giải không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm phạm quyền của bên thứ ba.

3.1.1.2. Quyền riêng tư và tính bảo mật

Tính bảo mật được qui định là một trong những nguyên tắc GQTC bằng hòa giải thương mại ở Việt Nam, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc pháp luật có qui định khác (Điều 4 Nghị định 22/2017). Như vậy, các bên tham gia vào quá trình GQTC bao gồm trung tâm hòa giải, hòa giải viên và các bên tranh chấp phải tuân, đảm bảo tính bảo mật trong suốt quá trình hòa giải cũng như sau hòa giải. Điều này là sẽ giúp nâng cao mức độ bảo mật thông tin về vụ việc và gia tăng sự tin tưởng của các bên về việc đảm bảo nguyên tắc tính bảo mật của hòa giải thương mại. Qui định này cũng không ngoại lệ khi tiến hành GQTC bằng HGTT. Tuy nhiên khi triển khai trực tuyến, việc bảo mật trong không gian mạng sẽ là một thách thức đối với các trung tâm cung cấp dịch vụ HGTT. Trong qui định về tổ chức hòa giải ở Việt Nam không có qui định cụ thể về năng lực bảo đảm tính bảo mật trong quá trình GQTC hay nói cách khác là các điều kiện kỹ thuật nhằm bảo mật đối với các trung tâm này, cho thấy các Trung tâm cung cấp dịch vụ hòa giải phải xây dựng và tự chịu trách nhiệm trong quá trình bảo mật thông tin. Ngoài ra, Nghị định 22/2017/NĐ-CP chỉ quy định rõ nghĩa vụ bảo vệ bí mật thông tin về vụ tranh chấp cho hoà giải viên thương mại tại Điều 9.2, mà chưa được quy định rõ nghĩa vụ bảo mật thông tin đối với các chủ thể khác như các bên tranh chấp, người đại diện, người trợ giúp, người phiên dịch, người làm chứng, người tham gia hỗ trợ hành chính trong quá trình hoà giải và những người liên quan khác.

Mặc dù có qui định nghĩa vụ của hòa giải viên về tính bí mật nhưng pháp luật của Việt Nam lại không qui định về phạm vi bảo mật đối giữa các bên trong quá trình áp dụng hòa giải. Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định 22/2017/NĐ-CP về những hành vi bị cấm đối với hoà giải viên thương mại thì hoà giải viên thương mại không được tiết lộ thông tin về vụ việc, khách hàng mà mình biết được trong quá trình hoà giải. Trên thực tế, thủ tục hòa giải không thể thiếu là các phiên họp riêng giữa hòa giải viên thương mại với từng bên tranh chấp để hòa giải viên có thể hiểu sâu nhu cầu và lợi ích của mỗi bên và nhận định các tín hiệu có thể giúp tiến triển trong hòa giải. Trong trường hợp đó, không phải thông tin nào hòa giải viên cũng được phép tiết lộ cho bên còn lại nếu không được sự cho phép của bên kia. Hiện nay pháp luật của chúng ta đang thiếu vắng qui định này.

Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể về việc bảo mật thông tin sau quá trình giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. Khi thủ tục hòa giải chấm dứt mà các bên không đạt được kết quả hòa giải thành, để tiếp tục giải quyết tranh chấp, một bên có quyền khởi kiện ra trọng tài thương mại (nếu tồn tại thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và thực hiện được) hoặc Tòa án có thẩm quyền (nếu không tồn tại thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và thực hiện được). Như vậy, việc một bên tranh chấp cung cấp thông tin, đặc biệt là thông tin của một bên khác mà mình có được trong thủ tục hòa giải nhằm làm phương hại đến bên đó trong thủ tục tố tụng trọng tài thương mại hoặc thủ tục tố tụng tòa án là hoàn toàn có thể xảy ra. Vì vậy, nghĩa vụ bảo mật toàn bộ thông tin trong thủ tục hòa giải sau quá trình hòa giải được đặt ra sẽ làm động lực các bên tranh chấp cởi mở, tích cực hơn trong tiến trình hòa giải.

3.1.1.3. Hòa giải viên và các bên trong hòa giải trực tuyến

Hòa giải viên đóng vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của một phiên hòa giải. Trong đó kiến thức và kỹ năng của hòa giải viên được xem là yêu tố quan trọng để khai thác, kết nối các bên với nhau. Khi triển khai hòa giải trên môi trường trực tuyến sẽ có sự khác biệt. Theo qui định, trở thành hòa giải viên tại Việt Nam thì ngoài yêu cầu về phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín, độc lập, vô tư, khách quan, Có trình độ đại học trở lên và đã qua thời gian công tác trong lĩnh vực được đào tạo từ 02 năm trở lên thì cần phải có kỹ năng hòa giải, hiểu biết pháp luật, tập quán kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực liên quan. Tuy nhiên, pháp luật không qui định cụ thể những kỹ năng hòa giải là gì, liệu rằng nếu tham gia môi trường trực tuyến thì hòa giải viên có phải trang bị thêm kỹ năng nào nữa hay không. Điều này có thể hiểu rằng đây chỉ là những qui định cứng, cơ bản về tiêu chuẩn của một hòa giải viên, các trung tâm hòa giải sẽ có quyền đặt ra những yêu cầu cao hơn trong qui tắc của mình (Điều 7.4 Nghị định 22/2017/NĐ-CP).

Theo: Hà Công Anh Bảo

Link luận án:  Tại đây

avatar
Đặng Quỳnh
690 ngày trước
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG GIẢI
3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải trực tuyến3.1.1   Các qui định về hòa giải trực tuyếnCho đến hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có qui định cụ thể về HGTT, tuy nhiên dựa trên các qui định về hòa giải thương mại, về giao dịch điện tử cho thấy HGTT cũng được qui định ở các khía cạnh pháp lý dưới đây.3.1.1.1   Thỏa thuận hòa giải trực tuyếnMuốn sử dụng HGTT ở Việt Nam trước hết các bên phải có thỏa thuận hòa giải và phải bằng văn bản (Điều 6 và Điều 11 Nghị định 22/2017). Dù không qui định trực tiếp về thỏa thuận HGTT nhưng thông qua qui định thỏa thuận hòa giải đó là thỏa thuận giữa các bên về việc GQTC thương mại có thể phát sinh hoặc đã phát sinh bằng phương thức hòa giải (Điều 3.2 Nghị định 22/2017) và sự thừa nhận giá trị pháp lý của dữ liệu điện tử tại Bộ Luật dân sự năm 2015, Điều 12 Luật Thương mại năm 2005 và Luật giao dịch điện tử 2005 cho thấy pháp luật Việt Nam thừa nhận một thỏa thuận hòa giải có thể được lập bằng văn bản hoặc bằng thông điệp dữ liệu. Trong trường hợp thỏa thuận HGTT được lập dưới dạng thông điệp dữ liệu thì nó phải có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết (Điều 12 Luật giao dịch điện tử 2005). Điều này đòi hỏi các bên tham gia phải có sự lưu giữ thỏa thuận hòa giải nếu lập bằng thông điệp dữ liệu.Pháp luật Việt Nam không có qui định cụ thể về thỏa thuận HGTT do đó vấn đề pháp lý gặp phải là các bên có cần phải biết về hình thức trực tuyến của thỏa thuận HGTT hay không cũng như cần phải có những nội dung gì được đề cập trong một thỏa thuận HGTT. Pháp luật Việt Nam để quyền qui định này cho các trung tâm hòa giải cũng như các bên tranh chấp, khi Nghị định 22/2017 chỉ qui định nguyên tắc về nội dung thỏa thuận hòa giải không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm phạm quyền của bên thứ ba.3.1.1.2. Quyền riêng tư và tính bảo mậtTính bảo mật được qui định là một trong những nguyên tắc GQTC bằng hòa giải thương mại ở Việt Nam, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc pháp luật có qui định khác (Điều 4 Nghị định 22/2017). Như vậy, các bên tham gia vào quá trình GQTC bao gồm trung tâm hòa giải, hòa giải viên và các bên tranh chấp phải tuân, đảm bảo tính bảo mật trong suốt quá trình hòa giải cũng như sau hòa giải. Điều này là sẽ giúp nâng cao mức độ bảo mật thông tin về vụ việc và gia tăng sự tin tưởng của các bên về việc đảm bảo nguyên tắc tính bảo mật của hòa giải thương mại. Qui định này cũng không ngoại lệ khi tiến hành GQTC bằng HGTT. Tuy nhiên khi triển khai trực tuyến, việc bảo mật trong không gian mạng sẽ là một thách thức đối với các trung tâm cung cấp dịch vụ HGTT. Trong qui định về tổ chức hòa giải ở Việt Nam không có qui định cụ thể về năng lực bảo đảm tính bảo mật trong quá trình GQTC hay nói cách khác là các điều kiện kỹ thuật nhằm bảo mật đối với các trung tâm này, cho thấy các Trung tâm cung cấp dịch vụ hòa giải phải xây dựng và tự chịu trách nhiệm trong quá trình bảo mật thông tin. Ngoài ra, Nghị định 22/2017/NĐ-CP chỉ quy định rõ nghĩa vụ bảo vệ bí mật thông tin về vụ tranh chấp cho hoà giải viên thương mại tại Điều 9.2, mà chưa được quy định rõ nghĩa vụ bảo mật thông tin đối với các chủ thể khác như các bên tranh chấp, người đại diện, người trợ giúp, người phiên dịch, người làm chứng, người tham gia hỗ trợ hành chính trong quá trình hoà giải và những người liên quan khác.Mặc dù có qui định nghĩa vụ của hòa giải viên về tính bí mật nhưng pháp luật của Việt Nam lại không qui định về phạm vi bảo mật đối giữa các bên trong quá trình áp dụng hòa giải. Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định 22/2017/NĐ-CP về những hành vi bị cấm đối với hoà giải viên thương mại thì hoà giải viên thương mại không được tiết lộ thông tin về vụ việc, khách hàng mà mình biết được trong quá trình hoà giải. Trên thực tế, thủ tục hòa giải không thể thiếu là các phiên họp riêng giữa hòa giải viên thương mại với từng bên tranh chấp để hòa giải viên có thể hiểu sâu nhu cầu và lợi ích của mỗi bên và nhận định các tín hiệu có thể giúp tiến triển trong hòa giải. Trong trường hợp đó, không phải thông tin nào hòa giải viên cũng được phép tiết lộ cho bên còn lại nếu không được sự cho phép của bên kia. Hiện nay pháp luật của chúng ta đang thiếu vắng qui định này.Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể về việc bảo mật thông tin sau quá trình giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. Khi thủ tục hòa giải chấm dứt mà các bên không đạt được kết quả hòa giải thành, để tiếp tục giải quyết tranh chấp, một bên có quyền khởi kiện ra trọng tài thương mại (nếu tồn tại thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và thực hiện được) hoặc Tòa án có thẩm quyền (nếu không tồn tại thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và thực hiện được). Như vậy, việc một bên tranh chấp cung cấp thông tin, đặc biệt là thông tin của một bên khác mà mình có được trong thủ tục hòa giải nhằm làm phương hại đến bên đó trong thủ tục tố tụng trọng tài thương mại hoặc thủ tục tố tụng tòa án là hoàn toàn có thể xảy ra. Vì vậy, nghĩa vụ bảo mật toàn bộ thông tin trong thủ tục hòa giải sau quá trình hòa giải được đặt ra sẽ làm động lực các bên tranh chấp cởi mở, tích cực hơn trong tiến trình hòa giải.3.1.1.3. Hòa giải viên và các bên trong hòa giải trực tuyếnHòa giải viên đóng vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của một phiên hòa giải. Trong đó kiến thức và kỹ năng của hòa giải viên được xem là yêu tố quan trọng để khai thác, kết nối các bên với nhau. Khi triển khai hòa giải trên môi trường trực tuyến sẽ có sự khác biệt. Theo qui định, trở thành hòa giải viên tại Việt Nam thì ngoài yêu cầu về phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín, độc lập, vô tư, khách quan, Có trình độ đại học trở lên và đã qua thời gian công tác trong lĩnh vực được đào tạo từ 02 năm trở lên thì cần phải có kỹ năng hòa giải, hiểu biết pháp luật, tập quán kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực liên quan. Tuy nhiên, pháp luật không qui định cụ thể những kỹ năng hòa giải là gì, liệu rằng nếu tham gia môi trường trực tuyến thì hòa giải viên có phải trang bị thêm kỹ năng nào nữa hay không. Điều này có thể hiểu rằng đây chỉ là những qui định cứng, cơ bản về tiêu chuẩn của một hòa giải viên, các trung tâm hòa giải sẽ có quyền đặt ra những yêu cầu cao hơn trong qui tắc của mình (Điều 7.4 Nghị định 22/2017/NĐ-CP).Theo: Hà Công Anh BảoLink luận án:  Tại đây